Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012
9 truyện ma nổi tiếng nhất thế giới
1. Bóng ma Brown Lady ám lâu đài Raynham Hall Câu chuyện kể rằng Mary Worth là một cô gái vô cùng xinh đẹp. Nhưng số phận nghiệt ngã đã khiến cô phải chịu một tai nạn khủng khiếp. Cô đã bị một chiếc xe đâm vào dẫn đến khuôn mặt hoàn toàn bị biến dạng trông rất đang sợ. Điều này làm mọi người xa lánh Mary. Và cũng từ đó, sự hận thù đã biến Mary thành một phù thuỷ chuyên đi ám ảnh mọi người (cũng có chuyện nói rằng Mary chết và trở thành hồn ma lang thang). Vào buổi tối, nếu bạn bước vào phòng, soi mình trong gương và gọi tên Mary Worth 100 lần thì cô ta sẽ hiện ra. Mary sẽ… cào xé khuôn mặt của bạn, làm bạn phát điên hoặc thậm chí giết chết bạn. Đó là những lời kể trong những câu chuyện về Mary. Nó đáng sợ đến nỗi người ta còn chả dám thử để xem thực hư thế nào. Vào buổi tối, nếu bạn bước vào phòng, soi mình trong gương và gọi tên Marry Worth 100 lần… Có rất nhiều người tin vào Mary Worth, đặc biệt là các thiếu nữ trẻ. Câu chuyện về người phụ nữ này cũng đã được chuyển thể thành phim và thu hút nhiều sự chú ý. 3. Borley - ngôi nhà ma ám nặng nhất nước Anh Nhà hát Drury Lane là nhà hát hoàng gia nổi tiếng tại Westminster, London. Drury Lane được xây dựng và mở cửa lần đầu vào năm 1663, và là nhà hát lâu đời nhất của London hiện nay. Trải qua bao thăng trầm lịch sử và nhiều lần xây dựng, đến nay Drury Lane vẫn đứng vững và trở thành một nơi lưu giữ và duy trì những gì tinh hoa nhất của nghệ thuật sân khấu, nhạc kịch, opera… Tuy nhiên đây cũng là nơi xuất hiện nhiều câu chuyện ma vô cùng bí ẩn. Nổi tiếng nhất trong số đó chính là câu chuyện về bóng ma màu xám. Bóng ma này có hình dáng một người đàn ông quý tộc, với chiếc mũ Tricorne, áo choàng, đi giầy cao bốt và dắt bên mình cây kiếm. Theo lời kể thì đây chính là oan hồn của một người bị đâm chết tại nhà hát .Năm 1848, người ta mới phát hiện ra xương của ông ta trong một chỗ bị bít kín. Có lẽ do chết quá oan ức mà ông ta vẫn còn ở lại ám ảnh nhà hát. Bên cạnh đó, bóng ma nam diễn viên Charles Macklin và diên viên hài Joe Grimaldi cũng xuất hiện ở Drury Lane. Macklin trước đó đã từng giết chêt một thành viên trong đoàn là diễn viên Thomas Hallam nên hồn ma ông ta cứ đi lang thang quanh nơi xảy ra vụ việc. Năm 1939, một người săn ma tên J. Wentworth Day nói rằng mình đã trông thấy thứ ánh sáng xanh trong nhà hát. 5. Những hồn ma trong lâu đài Morris-Jumel Đó là một đêm bão tố. Một người đang điều khiển xe thì thấy có một cô gái đứng bên lề đường. Người này quyết định cho cô đi nhờ một đoạn về nhà. Tuy nhiên, khi vừa đến nơi, người lái xe quay lại thì thấy cô gái đã biến mất. Để chắc ăn, người lái xe gõ cửa để xem có ai không và chắc chắn cô gái đã vào trong. Nhưng sau đó bố mẹ cô gái bước ra và nói rằng con họ đã…mất được vài năm rồi. Hàng năm, cứ vào ngày giỗ, cô con gái lại hiện hồn và đi xe nhờ về nhà. Đây chính là lời kể về bóng Hitchhiker. Một bóng ma lang thang trên đường vào đêm tối. Thường đóng giả một thiếu nữ bị hỏng xe và xin đi nhờ. Có rất nhiều phiên bản khác nhau của câu chuyện về Hitchhiker tại nhiều nơi thế giới. Có nơi người ta nói rằng chính Hitchhiker thường xin đi nhờ các chuyến xe đường dài và gây ra các tai nạn cho các chuyến xe đó. Một số câu chuyện rùng rợn hơn như việc một Hitchhiker ngồi sau xe và nói cho người lãi xe biết về cái chết sắp đến với anh ta hay đôi khi đưa ra một lời tiên tri. Lời khuyên cho bạn là nếu ai xin đi nhờ xe buổi tối thì cẩn thận! Đây là phần cuối mà cũng là phần ghê rợn nhất! 7. Chuyện rùng rợn ở Amityville Đây là một câu chuyện ma xuất phát từ miền nam nước Mỹ, câu chuyện về phù thuỷ Bell, gắn liền với hàng loạt sự kiện lạ thường xảy đến với dòng họ Bell, sống tại bang Tennessee. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1817 khi John Bell nhìn thấy có một con vật kỳ lạ trong ruộng của nhà ông ta. Nó có phần thân của loài chó những lại có đầu của thỏ. Khi John định bắn nó thì lập tức con vật biến mất. Sau đó là một loạt các tai hoạ ập xuống dòng họ Bell. Bắt đầu từ cô con gái Besty Bell, đột nhiên Besty luôn miệng khẳng định mình bị một thế lực vô hình tấn công. Rồi người cha John thì dần dần không nói được. Những chiếc chăn thì tự động bay ra khỏi giường, các thành viên trong gia đình bị xây xước, tóc bị giật không lý do. Gia đình ông lúc đó đổ lỗi cho việc ông đã đụng phải phù thuỷ và phải chịu phạt. Năm 1820, John Bell mất. Bên cạnh chỗ ông nằm người ta tìm thấy một lọ dung dịch màu đen, khi cho con mèo ăn thử thì lập tức nó lăn ra chết. Sau này, người ta tin rằng linh hồn của những người dòng họ Bell vẫn còn ở đó. Năm 1936 có một người đã quyết định đến ngôi nhà của dòng họ Bell và tìm hiểu. Ông ta nói rằng có những âm thanh yếu ớt của lũ trẻ đang chơi đùa hay tiếng nói chuyện vẫn có thể được nghe thấy. Một giả thiết nói rằng người đã hại dòng họ Bell chính là người hành xóm Kate Batts - được coi như một mụ phù thuỷ. Tại bang Tennessee vẫn có một cái hang được cho là của Kate. Người ta đồn rằng đây là nơi mụ dùng để qua lại giữa âm ti và trần gian. Đến nay chiếc hang vẫn thu hút hàng ngàn lượt khách thăm quan. 9. Hồn ma nữ trong khu rừng Bachelor, Chicago Người phụ nữ mặc áo trắng phải chịu đựng cuộc sống đau khổ chốn trần gian hoặc sự phản bội cuả vị hôn thê mình yêu. Vì lẽ đó mà bóng ma này xuất hiện trong những đêm trăng tròn với bộ đồ trắng toát, trên tay bế theo một đứa trẻ đang khóc. Năm 2004, một bức ảnh màu được công bố. Tuy không rõ như tấm ảnh trước nhưng nhiều người lại tin nó là thật hơn bởi dù sao nó cũng mang chút gì đó huyền ảo. Người ta còn quay cả video về chuyến đi săn lùng bóng ma áo trắng. Hết.
Truyện ma hay: Linh Hồn Ác - Chương 10
- Thế nào, đại úy bảo gì? Salhindro hỏi. - Bảo rằng tôi thôi điều tra cái xác cháy để chuyển sang vụ này. Brolin nhíu mày, hơi bực mình. - Tôi đoán là ông ấy yêu cầu tôi trở về. Brolin lắc đầu. - Tôi nghĩ là ông ấy thích kết thúc câu chuyện ghê tởm này một cách nhanh nhất trước khi báo chí kịp nhảy vào. Nhưng ông ấy không nói gì về anh cả. Anh có thể trở về nếu muốn, tôi sẽ làm vụ này. Salhindro đứng dậy. - Trở về để ôm ấp ai? Lũ chuột trong nhà kho hay trong hang? Thôi đi, chúng ta có nhiều việc để làm. Ngày đã đốt cháy những tia sáng cuối cùng của nó cách đây hai giờ. Đằng xa, hai người khiêng một cái cáng qua những thân cây, đi theo đường dích dắc giữa loạt đèn chiếu đặt trên giá đỡ ba chân. Mấy kỹ thuật viên sắp xếp nốt các ghi chép và sơ đồ của mình trước khi lên xe trở về. Brolin ngắm nhìn cảnh tượng siêu thực ấy: những chiếc đèn chiếu siêu công suất giữa rừng và khi rừng thưa ngập trong ánh sáng đỏ rực của đèn pha, ánh đèn flash từ máy ảnh của cảnh sát và tiếng lạo xạo của điện đài trong chiếc xe khoang. Miệng anh khô lại. Những phút dài ở trong ngôi nhà hoang cùng với xác chết để khám nghiệm. Việc đầu tiên mà anh làm sau khi tìm ra cái xác là xác định thời điểm chết một cách gần đúng. Xác đã cứng lại hoàn toàn. Brolin biết rằng hiện tượng đó (kết quả của sự co cơ sau khi chết do tác động hósa học) thường diễn ra trọn vẹn mười hai giờ sau khi chết và biến mất sau hai ngày, có nghĩa là trong trường hợp này, cô gái đã chết cách đây ít nhất mười hai giờ và nhiều nhất là bốn mươi tám giờ. Tức là chỉ mới xảy ra. Sau cuộc viếng thăm rùng rợn, Brolin đã mời đến đây hai kỹ thuật viên hiện trường vụ án, Scott Scacci và Craig Nova. Lúc đầu, hai người này mang một tổ máy phát điện tới cạnh ngôi nhà hoang để có thể lắp đặt những bóng đèn halogen công suất cao. Rồi họ chuyển sang xem xét tỉ mỉ bên trong ngôi nhà đổ nát. Vô số dụng cụ được dùng tới: đèn Polilight để phát hiện mọi dấu vết sinh học, máy in tĩnh điện để tìm vết chân, ninhydrin, nitrat bạc, màu đe amido và màu tím kết tinh để phát hiện vân tay… Nhưng hiện trường hầu như không còn nguyên vẹn, đầu tiên vì có cậu bé đã tìm thấy xác, rồi đến hai cảnh sát và bác sĩ trước khi Brolin và Salhindro vào. Lại thêm nhiều người khác đã từng vào đây vì có rất nhiều rác đủ loại bị vứt vào những thời điểm khác nhau đang chất đống ở đó. Craig và Scott lấy được nhiều mẫu phẩm cho vào những túi nhựa nhỏ, bao gồm tóc, lông và nhiều chất hữu cơ khác nhau vẫn chưa xác định được, và chụp hiện trường dưới tất cả các góc độ bằng máy Polaroid CU-5, chiếc máy ảnh phát ra hàng trăm tia sáng mỗi khi sử dụng. Những cây cà rốt cũng được mang đi để nhà côn trùng học phân tích xác nhận thời điểm chết nhờ nghiên cứu các côn trùng có trên xác. Brolin đang lùi về phía sau, nhưng anh đã bắt đầu ghi chép báo cáo. Trong cảnh hỗn độn như thế này, không thể cảm nhận hết mọi thứ ở đây như anh mong muốn, anh sẽ phải quay lại đây sau, nhưng anh yêu cầu mọi người chụp tối đa ảnh ngôi nhà và nhất là cái xác trước khi chuyển đi. Hồi ở FBI, phần lớn thời gian anh nghiên cứu qua báo cáo của cảnh sát, hoặc của bác sĩ pháp y, và qua ảnh. Rất hiếm khi anh được tới hiện trường, đây là một trong những thiệt thòi chính đối với anh. Nhưng Brolin biết rằng khả năng theo cuộc điều tra từng bước một, và nhất là có mặt ở nơi nạn nhân bị giết, là yếu tố chủ yếu để để dựng lại tâm lý của hung thủ. Bởi vì sau đó, anh phải bắt đầu nghĩ giống như tên giết người, cảm thấy mình như kẻ giết người để hiểu được hắn, và để làm được điều đó, không có gì tốt hơn việc đi theo hắn từ chính nơi hắn ra tay. Lúc này, Brolin đang nhìn những người khiêng cáng mang xác chết bọc trong túi đen đi, xung quanh là cả một vùng sáng giữa rừng. Craig Nova, một trong những kỹ thuật viên hiện trường, lại gần anh. Đó là một người đàn ông nhỏ con, khoảng bốn mươi tuổi, bộ tóc mọc thành vòng tròn quanh đỉnh đầu nhẵn bóng, trong hoàn cảnh này mà ông vẫn tỏ ra vui vẻ. - Chúng tôi đã làm những việc có thể, nhưng kết quả có lẽ phải chờ lâu, có đủ thứ bẩn thỉu trong kia, ông vừa nói vừa lau trán bằng khăn mùi soa. Chúng tôi sẽ phân tích tất cả, nhưng đừng mong đợi phép màu, chúng tôi tìm thấy khá nhiều vết chân và tóc, đủ để cậu phải mất vài ngày đọc báo cáo. Đống đổ nát này đã bị quá nhiều người ra vào. Brolin thở dài. Đoạn đầu của một cuộc điều tra dường như bao giờ cũng lộn xộn, phải sắp xếp trật tự mọi thứ mà không có một yếu tố cụ thể nào dù là nhỏ nhất. Sau khi đọc những báo cáo đầu tiên, các hướng điều tra sẽ được mở ra, ít nhất anh cũng hi vọng như thế. - Nhưng tôi đã có thể cho cậu một nhận định về thời gian chế, Craig nói tiếp. Ông lấy từ một trong những cái túi to trên bộ quần áo liền quần ra một cuốn sổ nhỏ và một cuốn nữa đầy các sơ đồ và hình vẽ phức tạp. - Đây…đây. Thế này, trước khi lấy nhiệt độ bằng cặp nhiệt điện, chúng tôi đã kiểm tra thấy cô gái không bị tổn thương ở rìa hậu môn. Tôi không phải là bác sĩ pháp y, nhưng ít nhất tôi cũng có thể nói với cậu rằng cô gái không bị hiếp dâm qua đường hậu môn. Tôi vừa gọi điện cho trạm khí tượng Portland, họ cho biết nhiệt độ trung bình ở đây la 22oC trong vòng bốn mươi tám tiếng vừa qua, ít biến động. Brolin thuộc lòng quy trình khám nghiệm, cụ thể là kết hợp các dữ liệu khác nhau liên quan đến khoảng cách nhiệt độ và trọng lượng cơ thể: bằng cách điều chỉnh chúng theo những yếu tố hiệu chỉnh phức tạp, người ta có thể phỏng đoán gần đúng về giờ chết. Khác với những gì thường thấy trên phim, việc xác định thời điểm chết không có gì là dễ dàng cả mà hoàn toàn ngược lại, đó là một nghệ thuật thường dễ gặp nhiều sai sót. Craig Nova nói tiếp: - Chúng tôi ước đoán trọng lượng của nạn nhân là năm mươi lăm cân và nhiệt độ ở hậu môn là 260C. Dựa vào tình trạng lão hóa thể của nạn nhân, điều kiện ẩm ướt của môi trường… Craig Nova mở cuốn sổ để tìm đường biến thiên mẫu và các barem điều chỉnh. Anh vạch ra ba nét bút chì rồi gật đầu, mắt nhìn chiếc đồng hồ đang chỉ quá hai mươi hai tiếng. - Hai mươi tiếng. Với sai số, chúng ta có thể ước đoán rằng cô gái chết đêm hôm qua, khoảng từ nửa đêm đến bốn giờ sáng. Điều này khớp với độ cứng của xác. Như vậy, cô gái đã mất tích vào đêm hôm trước, điểm này sẽ giúp xác định nhân thân, trừ khi cô bị giam giữ trong nhiều ngày, nhưng khả năng đó ít xảy ra vì không có dây trói hay vết trói ở cổ chân. Craig bật ngón tay. - Suýt nữa tôi quên mất. Anh lấy ra một tập ảnh chụp khuôn mặt nạn nhân bằng máy Polaroid chất lượng tốt. - Để bước đầu nhận dạng, anh nói. Brolin cầm lấy tập ảnh và nhét vào túi. - OK, cám ơn anh Craig, nhớ thông báo cho tôi trong thời gian nhanh nhất có thể. - Nhưng Carl DiMestro phụ trách việc này. Craig vẫy tay và nói thêm pha chút mỉa mai: - Chúc ngủ ngon. Rồi anh biến vào chiếc xe của mình, ở đó một trợ lý đang sắp xếp nốt những chiếc vali to đựng thiết bị. Brolin quay lại và thấy Salhindro đang hăng hái nói chuyện với sĩ quan Horner. Hẳn là ông đang giải thích cho Horner rằng do hoàn cảnh, nên cuộc điều tra sẽ không được giao cho họ, rằng thanh tra Brolin sẽ đảm nhận vụ này. Chương trình quá lớn, mới chỉ có mặt ở đây chưa tới ba giờ đồng hồ, nhưng anh đã cảm nhận được đây là một công việc khó khăn. Brolin đã đi quanh cái xác, quan sát kỹ càng và thấy rõ ràng nó rất giống với các nạn nhân của Đao phủ. Nhưng Leland Beaumont đã nằm sâu dưới ba tấc đất từ mười hai tháng nay. Hắn đã làm mồi cho giun. Thế nhưng hắn lại tạo ra một đối thủ, không nghi ngờ gì nữa, đây là một cách thể hiện lòng ngưỡng mộ. Hung thủ gây ra vụ này muốn cho tất cả mọi người thấy rằng hắn đánh giá cao “tác phẩm” của Leland Beaumont. Trong tiếng lóng người ta thường gọi kẻ đó là copycat – nghĩa là “người bắt chước”-, một kiểu sát nhân hàng loạt cực kỳ hiếm nhưng thường rất nguy hiểm. Những kẻ này còn đáng sợ hơn bởi động cơ của chúng thường bắt nguồn từ sự mê cuồng ghen tỵ đối với một kẻ giết người nổi tiếng, dẫn đến việc có nhu cầu giết người theo cách tương tự, nhưng muốn vượt qua “bậc thầy” về số lượng nạn nhân. Mà Đao phủ Portland mới chỉ dừng lại ở con số ba. Brolin lắc đầu, vẫn còn quá sớm để đưa ra bất kỳ kết luận nào. Anh còn phải nghiên cứu tỉ mỉ báo cáo pháp y cùng với các bức ảnh chụp nạn nhân tại hiện trường. Cảm thấy mọi người chờ đợi nhiều ở năng lực của mình, vị bác sĩ pháp y đã đưa ra những nhận xét đầu tiên tiến lại gần Brolin. Người này làm việc cho bác sĩ Folstom, giống như tất cả các bác sĩ pháp y khác trong thành phố. Nghĩ vậy, Brolin không thể nhịn cười thầm, anh nhớ lại khuôn mặt người đứng đầu cơ quan pháp y khi anh thông báo rằng anh phải đi ngay. - Chắc Craig đã nói với anh rồi, chúng tôi đã ước đoán thời điểm chết. Tất nhiên là chúng ta sẽ biết rõ hơn sau khi giải phẫu tử thi. Bác sĩ pháp y ngần ngừ như muốn xem có ai nghư trộm họ không rồi nói thêm: - Anh đã thấy thứ được dùng để đâm vào giữa hai đùi cô ấy chưa? Brolin gật đầu, mắt nhìn chăm chú. - Đồ điên nào có thể làm chuyện như thế cơ chứ? Bác sĩ pháp y thốt lên. - Một thằng điên khốn kiếp! Salhindro vừa tiến đến gần hai người, vừa bực tức nói. Một thằng điên khốn kiếp! Đằng xa, có tiếng cánh cửa ô tô đập mạnh, nhiều xe bắt đầu rời khỏi hiện trường. - Ngày mai, chúng tôi sẽ mổ xác, có lẽ vào buổi chiều, anh sẽ tham dự ca giải phẫu chứ? Bác sĩ hỏi. Salhindro lẩm bẩm: - Cứ làm như những gì đã thấy vẫn còn chưa đủ! - Tôi sẽ tới. Nhờ anh nói với bác sĩ pháp y sẽ giải phẫu đợi tôi, tôi sẽ qua lúc đầu giờ chiều, Brolin đáp bằng giọng vô hồn. Có mặt trong ca giải phẫu tử thi chỉ có thể có lợi cho anh để hiểu cơ chế của kẻ giết người. Hơn là chỉ đọc báo cáo, anh sẽ tận mắt theo dõi quá trình tái tạo các sự kiện, mỗi vết thương gắn liền với một hành động của kẻ giết người, rồi sau đó với một cảm xúc. Anh không hề thích công việc này, anh biết vì đã thất một số người bị các cuộc giải phẫu tử thi gây ấn tượng khó chịu đối với võng mạc mắt, một sự khó chịu bệnh hoạn in sâu vào tâm trí và tới ám ảnh những đêm sau đó. “Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, anh nghĩ khi nhớ lại việc mình khéo léo né tránh báo cáo của bác sĩ Folstom lúc cuối buổi chiều. Salhindro nhìn anh, mắt mở to. - Dù thế nào đi nữa, nếu sếp biết tôi theo cậu tới đó, ông ấy sẽ chuyển tôi sang làm việc phân loại thư từ, ông nói. Rất tiếc, nhưng cậu phải đi một mình thôi, anh bạn ạ. Bác sĩ pháp y chỉ về phía chiếc xe cứu thương đang đợi ở đằng xa. - Tôi phải đưa cái xác vào ngăn lạnh đây, tôi sẽ báo tin cho anh về ca giải phẫu tử thi, bác sĩ nói rồi đi về phía chiếc xe. Salhindro vẫn nhìn Brolin, Brolin không động đậy, rõ ràng anh đang tập trung vào suy nghĩ của mình. - Cái gì luẩn quẩn trong đầu cậu thế? Salhindro vừa hỏi vừa kéo thắt lưng quanh cái bụng bệ vệ của mình. Một làn gió vừa thổi tới, đêm chậm rãi khoác lên khu rừng lớp áo choàng mát lạnh. Những chiếc đèn pha cuối cùng đã rời xa khiến hai người đàn ông chìm trong bóng tối dưới ánh sáng tù mù của đèn trên trần xe Mustang. Có sự tương phản rõ rệt giữa bầu không khí tịch mịch đang dần trở lại và sự náo động trong khi rừng suốt vài giờ vừa qua. Những chiếc đèn chiếu công suất lớn đã biến mất, và cùng với chúng là ánh sáng vô liêm sỉ trên hiện trường vụ án. Từ lúc này, thiên nhiên thận trọng lấy lại quyền của mình, dần dần phủ xuống lớp màn tối tăm và bí ẩn. Vài giây sau Brolin mới trả lời: - Kẻ gây ra vụ này. Tôi đang tự hỏi hắn có thể đang làm gì vào chính lúc này đây…
Ma Thổi Đèn Tập 3 BỦA VÂY TUYỆT ĐỐI
"Tín hiệu ma" truyền ra từ cây đa già lúc đêm khuya, xác máy bay vận tải kiểu C của không quân Mỹ, tiếp đó là cỗ quan tài ngọc ở dưới xác máy bay, xác ông già nằm trong quan tài, con trăn bị lột da, những sợi thịt đỏ sùi ra trên mình nó chạy dài xuống đáy quan tài kỳ lạ, đáy quan tài gỗ trẩu lại mềm mại như nhựa cây, các sợi thịt đỏ xuyên qua mà chất lỏng trong quan tài không bị rò rỉ lấy một giọt. Cái hốc lớn trong thân cây đa già ních không biết bao nhiêu xác khô của các loài cầm thú và người, những cái xác này đều chung số phận, đều bị các mạch máu đỏ vươn ra từ quan tài bám quanh, những mạch máu này cuối cùng chui vào thất khiếu của các xác động vật và người, dường như hút cạn máu tươi rồi truyền dẫn trở lại quan tài ngọc. Vì thế, chất lỏng trong quan tài là một dung dịch chống phân hủy được hình thành nhờ hình thức chuyển hoán, dùng máu tươi để duy trì thi thể trong quan tài không bị rữa nát. Nằm trên cùng trong cái hốc cây to là thi thể khô héo của viên phi công, trên mình mặc áo khoác phi công, cổ bẻ lót lông, xác đã khô quắt nhưng vẫn giữ nguyên tư thế cuối cùng trước khi chết - một tay thò ra bên dưới quan tài, chính là bàn tay cầm cái nhíp hai đầu mà chúng tôi đã nhìn thấy lúc trước. Hình như anh ta bị những sợi thịt đỏ kia cuốn chặt rồi kéo vào hốc cây, vào những phút cuối cùng của cuộc đời, anh ta vẫn tiếp tục giãy giụa, một tay đã nắm được cành cây dưới quan tài, nhưng cũng chỉ làm được có thế, khi anh ta thò tay ra khỏi đám cành cây mục nát, những sợi thịt đỏ kia đã chui vào mắt mũi tai của anh ta. Tất cả đều đã hết sức rõ ràng, đây chính là bồi lăng của mộ Hiến vương, ở đây an táng một vị quan chủ tế thuộc hạ của Hiến vương, ông ta lợi dụng trùng thuật để tùy táng một con trăn bị lột da cùng xác mình trong cỗ quan tài ngọc. Bản thân hai cây đa già này là một hệ thống sinh thái tự cung ứng và tương đối độc lập, rất nhiều động vật xung quanh đã trở thành nguồn "phân bón" cho cỗ quan tài. Hai cây đa phu thê dưới núi Già Long tuy không phải là huyệt phong thủy gì nhưng có thể suy đoán rằng nó là một thứ "huyệt lạn cốt" trên thân con rồng nước an táng Hiến vương. Huyệt lạn cốt tức là nơi âm chẳng giao dương, dương chẳng gặp âm, phân giới không rõ, hình thế mơ hồ, khí mạch tản mạn không ngưng tụ. Luồng khí vận hành bên dưới huyệt là khí âm, khí mạch trào ra bề mặt là khí dương, rừng nơi này lại quá ẩm ngốt, trên và dưới mặt đất không mấy khác biệt, đó chính là cái lẽ "âm dương bất minh" vậy. Mạch và khí ở đây không ngưng không tụ, lại không có sông suối ngăn chặn, an táng ở đây thì khó mà cho con cháu đời sau được hưởng phúc ấm, chỉ có thể khiến xương thịt mủn rữa, cho nên mới gọi là "huyệt lạn cốt" hay "phủ thi mai". Tuy nhiên, dùng cây làm mồ không những thay đổi được tương quan cấu trúc ở đây, lại thêm con trăn trùng thuật nằm trong quan tài hút huyết tủy của các động vật thì hoàn toàn có thể duy trì cho xác người không rữa nát, từ đây có thể thấy lão chủ tế này lúc sinh thời là một cao nhân rất thông hiểu thuật âm dương. Cái thủ pháp trái hẳn với quy tắc thông thường này, người bình thường đâu có thể nghĩ tới được? Nếu không có sự cố máy bay vận tải Mỹ làm toác cây đa, lộ ra cỗ quan tài ngọc bên trong thì chẳng ai ngờ rằng cây này lại là một nấm mồ thiên nhiên, bên trong có một cỗ quan tài như thế. Giờ đây chỉ có thể nói rằng số trời đã sắp đặt cho chúng tôi bắt gặp việc này mà thôi. Nhưng vẫn còn một chi tiết khó mà hiểu nổi, nếu nói cỗ quan tài ngọc giết hại các sinh vật đến gần, trong thân cây đã quy tụ không ít oan hồn, vậy tại sao từ đầu đến giờ chúng tôi vẫn chưa bị tấn công? Tuyền béo ôm chiếc túi da hươu đựng bốn năm thứ khui được trong quan tài, dương dương đắc chí nói :" Nhất ạ, tôi thấy cậu đã bị kẻ địch dọa cho sợ mất mật rồi! Nghĩ lắm cái cóc khô gì nữa? Theo tôi thì cứ cho cây đa này một mồi lửa cháy trụi đi là xong, thi hành chính sách ba sạch: đốt sạch, giết sạch, cướp sạch!" Shirley Dương quan sát tương đối kỹ, muốn tìm ra một vài đầu mối như chữ viết hoặc hình vẽ gì đó trong quan tài, cuối cùng nhận ra ở mặt dưới cái nắp quan tài vứt chỏng chơ một bên có nhiều hình vẽ nhật nguyệt tinh tú, người, động vật và các dấu hiệu kỳ lạ khác. Chỉ thoáng nhìn cô đã có phản ứng ngay, hỏi chúng tôi :" Hôm nay ngày bao nhiêu âm lịch? Dù con trăn trùng thuật này có hồn phách hay không, ít nhất nó cũng dựa vào cỏ cây và sợi thịt, ký sinh vào đấy một loại thực vật dạng nấm khuẩn kiểu tiềm phục ẩn mình, giống như cây ăn thịt người vậy, không phải lúc nào cũng hoạt động. Nó cũng như phần lớn động vật trong rừng, đêm ngủ, ngày đi săn mồi, hằng tháng trước và sau ngày rằm là khi nó hoạt động sôi nổi nhất". Tuyền béo bấm đốt ngón tay nhẩm tính :" Mồng một ... mười lăm ... mười lăm ... hai mươi, hôm nay ngày mười mấy gì đấy, tôi chịu thôi ... nhưng tôi nhớ đêm qua trăng to tổ bố, vừa tròn vừa đỏ..." Bầu trời lúc này mây xám nặng trịch như chì, nhưng đã hết tiếng sấm, rừng cây tĩnh lặng, dường như chỉ còn tiếng thở và tiếng tim đập của ba chúng tôi. Tuyền béo vừa dứt lời thì cả ba cùng nhớ ra rằng đêm qua trăng sáng như tranh, dù hôm nay không phải ngày rằm thì cũng là mười sáu. Shirley Dương bất thình lình rút con dao lính dù ra, chỉ về phía sau lưng tôi kêu lên :" Cẩn thận đằng sau anh!" Chưa ngoảnh đầu nhưng tôi đã kịp bổ ngay cái cuốc chim leo núi về phía sau, ba sợi đỏ vươn đến sát người tôi lập tức bị chặt đứt làm sáu đoạn trên thân cây, chỗ bị đứt tuôn ra chất lỏng vừa đỏ vừa đen, ba khúc ngắn bị rơi xuống đất, lập tức co lại khô quắt, ba vết đứt của ba " cái vòi" thò từ trong thân cây ra lập tức tự lành vết thương và co trở vào trong. Tôi nhìn quanh một lượt, thấy trên thân cây cao to vươn ra vô số những sợi thịt đang từ từ di chuyển, đã cắt đứt hết đường rút lui của chúng tôi, trông chúng như những ống dẫn nước nhỏ màu đỏ. Shirley Dương và Tuyền béo đang dùng vũ khí trong tay chặt đứt vô số sợi thịt màu đỏ nhung nhúc dịch chuyển. Nhưng mặc cho chúng tôi chém thế nào, đám sợi thịt giống như đàn giun này cứ mỗi lúc một nhiều lên, chặt được một lại mọc ra ba, mà còn to hơn trước nhiều lần, không ngừng uốn éo áp sát chúng tôi, trông kinh tởm đến độ khiến người ta chỉ muốn nôn ọe. Không gian trên tán cây có hạn, khó mà xoay xở cho chu toàn, tuy rằng nếu hụt chân thì đã có dây bảo hiểm, khỏi lo ngã xuống mà chết, nhưng lỡ mà bị treo lửng lơ trên cây, chúng tôi sẽ lập tức bị những sợi thịt màu đỏ của con trăn trùng thuật thừa cơ tấn công, len qua thất khiếu, đó sẽ là cách chết cực kỳ đau đớn, khốn khổ chẳng kém gì bị bắt sống để chế tạo thành tượng người. Shirley Dương đã bị dồn đến chỗ đầu mút của một cành cây, bất cứ lúc nào cũng có thể gãy lìa rơi xuống, cô nàng chỉ còn cách cầm con dao lính dù gắng gượng chống đỡ. Thấy Shirley Dương bị yếu thế, tôi định đến hợp sức với cô nhưng bản thân cũng khó mà thoát nổi, Tuyền béo ở phía bên kia cũng tự lo cho mình còn chưa xong, tôi nóng lòng như lửa đốt, định dùng máy chữ Chicago lia một chập giải vây cho Shirley Dương, nhưng lại sợ bắn gãy cành cây thì cô nàng cũng theo đấy rơi xuống, nhất thời thúc thủ vô sách chỉ còn biết lớn tiếng hô Tuyền béo mau đi cứu người. Shirley Dương thấy hai chúng tôi ở bên này hò hét, ngoảnh sang phía chúng tôi trong khi tay vẫn chống đỡ không ngừng, miệng hét lớn :" Tôi sẽ nhảy xuống lấy bình xịt propane đốt cây này đi. Khi tôi châm lửa hai anh hãy liệu tìm cách mà tụt xuống đất nhé!" Tôi nghe mà phát hoảng, cây cao hai ba chục mét sao có thể nói nhảy là nhảy luôn được, vội cuống quýt nói với Shirley Dương :" Cô sợ quá lú lẫn rồi chắc, nhảy từ trên này xuống khác nào tự sát? Đừng làm chuyện ngu ngốc nữa, chớ có mà chăm chăm thể hiện chủ nghĩa anh hùng cá nhân của người Mỹ các cô, sức mạnh tập thể mới là vĩ đại! Cô hãy cố cầm cự, bọn tôi đến tiếp ứng ngay". Tuyền béo đứng bên lại tát nước theo mưa, lớn tiếng nói với Shirley Dương :' Nhảy xuống đi, nhảy xuống, cô sẽ hòa mình vào trời xanh đó!" Shirley Dương không nói gì nữa, cầm dao cắt luôn sợi dây bảo hiểm buộc ở ngang lưng, tung mình nhảy ào xuống. Tôi trợn tròn mắt nhìn theo, quả tim dường như cũng rơi theo từ độ cao hai ba chục mét này xuống đất. Tuyền béo há hốc mồm, nói :" Ối mẹ ơi, dám nhảy thật à? Người Mỹ quả là rất chịu chơi!". Shirley Dương đang lơ lửng trên không, ô Kim Cang cầm trong tay vừa bật ra, biến thành cây dù để giảm tốc độ rơi. Nếu không phải là ô Kim Cang kiên cố mà đổi lại là cái ô bình thường, lúc này chắc nó đã bị luồng không khí bên dưới thốc dựng lên, biến thành cái loa kèn, thật không ngờ chiêu hiểm này của Shirley Dương lại thành công. Tuy nhiên chúng tôi đã vui mừng hơi sớm, một sợi dây leo bỗng vươn ra từ thân cây đa già, trực tiếp quấn lấy Shirley Dương, giữ cô nàng lơ lửng giữa không trung. Đối mặt với đòn tấn công bất ngờ, Shirley cũng kinh hoảng lúng túng không biết làm sao, đành xọc mũi dùi nhọn xuyên giáp của đầu cái ô Kim Cang vào thân sợi dây leo. Tôi đứng trên ngọn cây nhìn thấy rất rõ có vài sợi thịt đỏ bám trên dây leo. Sự lợi hại của những sợi thịt đỏ này nằm ở sức sống ngoan cường như lũ giun đất khổng lồ, dù bị chặt thành mấy đoạn chúng vẫn sống tiếp được, căn bản là không biết xử trí thế nào vói bọn này. Tôi đã bị không ít chất nhầy của chúng bắn lấm tấm khắp người, bốc mùi vừa ngái vừa thối nhưng hình như không có chất độc, nếu không, bị dính nhớp như thế, độc tố phát tác khiến tôi chết đứ đừ từ lâu rồi. Mũi hít vào toàn mùi thum thủm tê tê, trong đầu tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ, những đám sợi thịt này tựa như huyết quản của quan tài ngọc, "đánh rắn đánh dập đầu, bắt giặc bắt tướng trước", tại sao mình không đập vỡ luôn cỗ quan tài ngọc kia. Cứ tiếp tục quần thảo nhau trên tán cây thế này không phải là cách hay, đánh lâu mỏi tay, lỡ bị chúng trói chặt thì tiêu đời, hôm nay đành liều mạng đánh cược một phát vậy. Tôi bảo Tuyền béo tạm chống đỡ giúp một lúc, rồi giơ luôn khẩu Thompson ra chĩa vào quan tài ngọc trong thân cây bắn một chập. Khẩu súng máy kiểu Mỹ hỏa lực cực mạnh ngay tức khắc bắn nát vụn cỗ quan tài, chất dịch bên trong chảy ra bằng hết. Đến khi những giọt cuối cùng chảy ra sạch, những sợi thịt đỏ uốn éo nhung nhúc của con trăn trùng thuật bỗng như bị rút mất linh hồn, rào rào rơi xuống rồi khô quắt lại trong chớp mắt. Shirley Dương cũng bám vào sợi dây leo tụt xuống nên không bị thương tích gì, chỉ bị kinh sợ một phen, gương mặt hơi tái đi. Tôi và Tuyền béo vội leo xuống, ba người lúc ấy mới hơi trấn tĩnh được một chút, trận chiến bất thình lình trước sau chỉ chưa đến mấy phút nhưng với chúng tôi, sao mà dữ dội tưởng như kéo dài đằng đẵng. Tôi đang định lên tiếng nói với Shirley Dương và Tuyền béo thì khắp mặt đất chấn động rất mạnh. Hai cây đa già cỗi dần dần không chịu đựng nổi nữa, tiếng rễ cây bật tung đứt lìa vang lên liên miên không ngớt, hình như bên dưới cây có một con vật khổng lồ đang húc đất ngoi lên, đội cả rễ lẫn thân cành của cây đa hơn hai ngàn tuổi này bật dậy. Bầu trời lại nổ sấm vang rền, cái hốc toác ra trên mặt đất bốc lên những làn khói đen. Sấm nổ vang, khói ngùn ngụt, đất nứt toác ... tạo thành một cơn lốc xoáy mà cây đa già là trung tâm, vây chặt lấy ba chúng tôi.
Thứ Bảy, 18 tháng 8, 2012
Chương 8 NGÔI LÀNG THỨ BẢY: HY SINH
Lòng hiếu kỳ của Đào Tử tăng dần lên khi cánh cửa cầu thang điện mở ra. Đôi chân cứ bước ra khỏi cầu thang như có một sức mạnh nào cuốn hút cô, cô phát hiện mình đang đi vào đại dương mênh mông của một sự sắp đặt có thứ tự. Đó là hệ thống tổ hợp của một chiếc máy chủ đồ sộ! Trên mấy trăm chiếc giá đầy ắp những bộ phận xử lý với các công năng khác nhau. “Có thấy lạ không?”. Tạ Phi đang đi sau lưng bỗng hỏi tôi. “Tất cả ở đây bao gồm các seri trò game, đều là tâm huyết của anh ấy đấy”. “Anh ấy” chính là Tần Ca - người lập trình viên đã mất tích mười năm trước đây, đôi mắt Đào Tử bỗng như sâu thêm, cô nghĩ như vậy và tự nhủ, hỏi như vậy không phải là không có căn cứ, mà cô hỏi là để khẳng định thêm cho mình. Không đợi Tạ Phi trả lời cô nói tiếp: “Tôi đã nghiên cứu kỹ càng bối cảnh xuất thân của anh. Chín năm trước, tức vào năm thứ hai sau khi Tần Ca mất tích, có một người mang họ Tần thi đỗ vào khoa tin học trường Bách khoa, sau khi tốt nghiệp anh ta lại đến Tỉnh Ma để học tiếp lên thạc sĩ”. Lúc đó, Tạ Phi vẫn bình tĩnh im lặng, cậu giống như một bậc vương giả nhìn xuyên suốt toàn cục. Anh ta điềm đạm nói: “Với kiến giải của cô thì cô cho rằng họ có quan hệ gì?”. “Về tuổi tác thì họ là hai anh em ruột. Tôi cũng đoán ra rằng, anh chính là em của Tần Ca, nhưng tôi không hiểu tại sao anh lại mang họ Tạ”. Câu nói của tôi không làm Tạ Phi giật mình mà ngược lại, anh ta còn cười ngặt ngẽo và nói: “Ngay cả thân phận còn không thật thì tên có ăn thua gì?” Mấy năm nay, để tìm tung tích anh Cả, hắn vùi đầu vào học, mai danh ẩn tích… tất cả những gian nan vất vả đó giờ đã tìm ra tên đầu sỏ gây án, nên sau cơn kinh hãi thoáng hiện trên mặt là niềm vui được giải phóng. “Anh ruột tôi đâu phải mất tích, anh ấy đang ở đây!” Câu nói đột ngột của Tạ Phi làm Đào Tử giật mình, cô đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy ngoài hai người là cô và Tạ Phi ra chẳng thấy gì ngoài những cỗ máy đồ sộ nằm im bất động. “Anh trai tôi là một thiên tài lập trình, chính anh ấy đã viết phần mềm mẫu cho seri trò chơi “Bảy ngôi làng ma”. Trong khi kể về sự thật về anh trai mình mặt Tạ Phi bỗng sa sầm xuống, giống như bị quỷ ám. “Nhưng cô biết không? Tên tiểu nhân Trần Hoa đã dùng thủ đoạn đê tiện để cướp đoạt thành quả đó. Công ty phần mềm cái quái gì, nếu không có seri trò chơi của anh trai tôi thì chúng có giàu có như bây giờ không? Còn tên Trịnh Dung Tân nữa, hắn rõ ràng biết chuyện nhưng không dám lên tiếng mà im như thóc, thật hắn quả là đồ bỏ đi”. Chân tướng sự việc đã bắt đầu được hé mở, cố ghìm nén sự kích động trong lòng Đào Tử lặng im nghe Tạ Phi nói tiếp. “Cô có biết, khi một người thanh niên khắc khổ học tập, làm việc, kinh doanh nhưng lại bị kẻ khác chiếm đoạt cả tiền tài lẫn danh tiếng, sẽ có cảm giác thế nào không? Anh trai tôi lẽ ra có thể từ chức, từ bỏ thế giới game, nhưng anh ấy đã vì tôi, vì tôi vẫn còn trong cái ngôi làng cắn đất mà ra sắt, chó ăn đá gà ăn sỏi đó mà ở lại công ty. Anh ấy muốn cho tôi một cuộc sống khá hơn, nên đành phải im hơi lặng tiếng. Tên Trần Hoa đe dọa, nếu không làm việc tại công ty hắn thì đừng hòng làm việc được ở đâu, dù đến chân trời góc biển hắn cũng truy lùng để giết chết”. “Nhưng rốt cục hắn đã nhẫn tâm giết anh trai anh còn gì?” Đào Tử hỏi nhưng thấy Tạ Phi dường như không nghe thấy gì, hình như hắn đang trầm ngâm trong ký ức đau khổ đó. “Tôi nghĩ, anh ấy ý thức được cái chết sẽ đến với mình nên đã ôm tất cả nỗi hận đó ném vào trong seri trò chơi “Bảy ngôi làng ma”. Năm thứ hai sau khi trà trộn thành công vào trong công ty Trần Hoa, thì tôi phát hiện ra bí mật đó. Tôi đã viết lại trò chơi, đã phong kín hơn mười năm đó, để nó có thể thích ứng với trào lưu thời đại và hệ thống vi tính hiện đại, hoàn thành ý niệm báo thù của anh trai tôi. Đào Tử không hỏi gì thêm, bây giờ, điều hoài nghi lớn nhất trong đầu cô là: “Làm sao mà Tạ Phi biết được những bí mật liên quan tới Tần Ca? Chẳng lẽ người ta có thể nói chuyện được với người đã chết?” Dường như đọc được những suy nghĩ của cô, Tạ Phi lấy một bản vẽ từ trong hộp tin ra bảo: “Chính những bức họa này đã nói cho tôi biết tất cả! Trong tầng hầm này, tôi có thể vẽ lên linh hồn của anh tôi, anh ấy đang ở đây”. Nói xong, Tạ Phi tiêu hủy hết đống bản thảo đó. Những tấm vẽ phác thảo lập tức bay lả tả trong không trung, giống như những bông hoa tuyết cực lớn. Đại bộ phận những bản phác thảo đó mô tả câu chuyện cuối cùng trong “Bảy ngôi làng ma”, câu chuyện của chính người đã thiết kế ra nó, tức là những chuyện mà Tần Ca đã trải qua trong trò chơi. Cũng giống như số mệnh của người trải qua trong trò chơi, nó có cái tên mang tính khái quát là “Hy sinh”. Mấy năm trước, tôi có ăn phở ở một thị trấn của huyện nhỏ, không ngờ, bát phở đó đã làm thay đổi cả cuộc đời tôi. Ông chủ gánh phở rong đi chiếc xe đạp, sau yên xe có đèo thêm chiếc sọt đan bằng cành liễu, cả thức ăn toàn bộ gia sản đều nằm trong chiếc chén nhỏ bằng sứ xanh rồi mang cho tôi. Bát phở đó tôi đã ì à ì ạch ăn trong hơn nửa giờ, ăn xong tôi bắt chuyện với ông lão, rồi tôi đã mua cái bát xanh bằng sứ đó với giá hơn hai mươi đồng. Ngay hôm đó, tôi không có thời gian để tiếp tục công việc kiếm tiền mà tôi đang thực hiện nữa, lập tức bắt xe trở về. Trong suốt quãng đường đi, tim tôi cứ đập liên hồi. Tuy chưa được xác nhận chính xác, nhưng tôi tin rằng, bảo bối tôi có được đó là cái chén được làm từ đời Nguyên. Chiếc bát đó không những quý vì nó là cổ vật mà nguyên liệu làm ra nó cũng rất hiếm, công dụng chủ yếu là để cúng tế, rất hiếm trong dân gian. Không biết mộ tổ nhà tôi có phải đã mọc cỏ cảo không mà khiến tôi có được chiếc bát này. Chiếc bát nhỏ đó đã bán với giá tám mươi vạn nhân dân tệ, đó là món thu nhập lớn nhất kể từ khi tôi buôn bán đến nay! Nửa năm sau, khi đọc một tin trên mạng, tôi được biết cũng chiếc bát đó đã được bán với giá hơn hai triệu. Từ đó, tôi bắt đầu theo định kỳ đi đến các vùng hẻo lánh và những ngôi làng ma, mua lấy những cổ vật vô giá mà người dân ở đó thường xem như đồ bỏ đi. Quả thực, tôi đã trở thành người buôn đồ cổ. Khi bước vào nghề tôi chỉ đặt ra mục tiêu là kiếm tiền, lừa đảo những người nghèo nàn thiếu học, thiếu hiểu biết. Nhưng về sau, tôi đã nghiện cái nghề này. Trước khi hành nghề tôi là một nhà thơ, mấy năm liền trước đó nó khiến tôi không còn lòng dạ nào kinh doanh nữa, đã không kiếm được tiền mà người tôi xem ra bốc lên toàn mùi đồng và mùi đồ cổ. Sau khi trở thành người buôn đồ cổ, tôi đã đi du lịch khắp đó đây trên thế giới, điều đó đã thỏa trí nguyện ngao du sơn thủy, khi tìm được báu vật trong đống đổ nát hoang phế, tôi bỗng thấy tự hào hơn cả Cô_Lôm_Bô khi phát hiện ra châu lục mới. Hiện nay, trong một năm phải có hơn tám, chín tháng ròng tôi ở trong những ngôi làng hẻo lánh để truy tìm cổ vật. Tuy rằng có lúc suốt cả mấy tháng liền tôi chẳng kiếm được món đồ cổ nào, nhưng trong lòng tôi luôn kiên định niềm tin sẽ có ngày kiếm được bảo bối. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng trên đời này còn có nhiều đồ cổ vật đang khuất lấp sau lớp bụi nhơ bẩn chờ bàn tay tôi mang chúng trở lại trong ánh hào quang của tiền bạc. Mùa hè năm nay, tôi đã ngồi trên xe suốt hơn bốn mươi giờ, đi đến các ngôi làng hẻo lánh vùng Tây Nam Trung Quốc. Trong huyện lỵ nhỏ bé hẻo lánh nghèo nàn đó, mưa lâm râm suốt ngày suốt tháng, bốn bên đều có núi cao vây chắn, đây quả là một ngôi làng khép kín điển hình. Con đường nhỏ trong huyện sạch bóng sau cơn mưa, những ngôi nhà gỗ và mặt đường lát đá xanh đẹp như tranh thủy mặc. Ngày ngày, ngoài thời gian đi loanh quanh các con phố, ngõ hẻm ra tôi ngâm mình vào trong một quán trà nhỏ duy nhất trong huyện. Khách chính trong quán trừ một vài ông lão trong làng ra thì đều là khách vùng khác đến. Người vùng khác rất hiếm khi đến vùng này, người muốn đến quán nhỏ này uống trà càng ít. Trong quán ngoài tôi ra, chỉ còn có hai người trạc tuổi tôi - khoảng hơn ba mươi, thế là tự nhiên chúng tôi ngồi lại với nhau, bàn tán dăm điều ba chuyện mua cười! Trái đất quả là tròn, hóa ra hai người đó cũng là đồng nghiệp với tôi, họ vốn là những người ở thành phố đã quen sống sung túc, được cha mẹ cưng chiều từ nhỏ. Nay phải chịu thiệt thòi, phải chôn mình nơi vùng chó ăn đá gà ăn sỏi này để mong chờ có ngày tìm được báu vật đồ cổ. Tối hôm đó, chúng tôi ngồi lại với nhau uống rượu. Lúc đó, tôi mới biết tên đầu trọc là Vương Lỗi, trông hắn vai u thịt bắp, từng lăn lộn trong chốn giang hồ, có lần bị chém phải nằm viện hơn nửa năm, sau khi xuất viện gan hắn bỗng trở thành gan thỏ, không dám cầm dao nữa chứ đừng nói chuyện chém nhau giết người. Ông nội hắn trước từng buôn đồ cổ, ông ta có chút hiểu biết về món chơi này, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, đứa cháu đã kế nghiệp tổ truyền, cũng đi buôn đồ cổ. Tên nói chuyện cứ lắp ba lắp bắp là Đàm Xuyên, lớn tuổi hơn Vương Lỗi, nhỏ hơn tôi vài tuổi, tên này ít nói, thoạt nhìn cứ tưởng hắn là người mưu sâu kế hiểm, nhưng tiếp xúc lâu thấy hắn là người thật thà. Trước đây hắn ở Cục di sản vì đánh cắp cổ vật nên bị đuổi khỏi cơ quan, từ đó hắn danh chính ngôn thuận trở thành người buôn bán đồ cổ. Hai tên này đến trước tôi mấy hôm, nhưng công việc làm ăm trong huyện nhỏ nghèo kiệt xác này không ra gì. Ở vùng này tuy là xa xôi hẻo lánh nhưng mỗi năm có đến mấy mươi lượt người đến hỏi mua đồ cổ nên đồ quý giá đã bị họ quét sạch sành sanh. “Qua mấy hôm nữa, các vùng lân cận và trong vùng này sẽ có buổi chợ phiên ở đây”. - tên Đàm Xuyên nói. Đây cũng là lý do chính khiến chúng tôi ở lại đây. Nói thực, trong vùng nhỏ tẹo này mà lại đụng hàng thì tôi không thích chút nào và cảm thấy có chút áp lực nào đó! Đồ tốt đã không nhiều lại nhiều người mua, kiểu san sẻ này quả là bất tiện. Nhưng thiết nghĩ. Cái nghề này ngoài vận may ra thì trình độ nghề nghiệp cũng rất quan trọng nên dù nhiều hay ít cũng không thành vấn đề. Nếu thiếu bản lĩnh, thì bảo vật nằm trước mắt cũng không biết. Trong ngày trời nhiều mây có mưa, cái huyện nhỏ này như ngâm mình trong nước, đâu cũng ẩm thấp, chăn đệm trong quán dường như lúc nào cũng có thể ra nước. Là người bôn ba đã nhiều như tôi vẫn thấy không chịu được, may mà chợ phiên chỉ còn 3 ngày nữa là họp. Nhiều vùng nông thôn cho đến giờ vẫn còn tiếp tục chợ phiên, mỗi chợ phiên cách nhau càng lâu thì hàng hóa mang ra mua bán càng phong phú. Trong cái huyện này đến nửa năm mới họp một lần nên nhộn nhịp hết sức, quả tôi không ngờ đến. Hơn nữa, hình như trời cũng biết chiều theo lòng người, hơn nửa tháng nay trời hanh ráo, có hôm còn có cả ánh mặt trời. Tôi dạo bước trên đường vào chợ, vừa đi vừa tắm mình trong nắng, vừa phơi “tâm hồn” mình luôn. Đôi mắt cũng như ốc sên ngủ đông, đến hôm trời nắng cứ thế mà bổ lung tung. Chợ tại vùng nông thôn hẻo lánh thông thường người ta chỉ bán những nhu yếu phẩm hàng ngày, thỉnh thoảng các vùng lân cận mang theo những đặc sản của vùng mình. Chợ kéo dài suốt mấy dặm, dường như nó chiếm cả hai con đường giao thông chủ yếu của huyện lỵ này. Nếu nơi đây vẫn còn là một nhà thờ như ngày xưa, thì tôi đã ngất ngây trong cái không khí mang đậm bản sắc văn hóa của từng vùng miền này rồi, nhưng giờ tôi đã là một người buôn đồ cổ, mục tiêu của tôi là mua rẻ mạt những bảo bối bị sự ngu dốt thiếu hiểu biết của người dân che lấp rồi mang chúng lên các thành phố hiện đại để bán kiếm món tiền hời cho nên phiên chợ này, ngược lại tôi thấy mệt lả, chán chường, thất vọng, lưu lại hơn một tuần, tiền trong túi đã hết, hàng cũng không có, chuyến này đành phải gióng trống thu quân, treo cờ trắng thôi! Quá trưa, tôi ăn qua loa vài miếng cho đỡ đói rồi tiếp tục săn tìm bảo bối. Thời gian đã không phụ lòng người có tâm, chẳng mấy chốc, tôi phát hiện ra một lọ gốm. “Lọ ngũ LiêN”. Tim tôi như nhảy vọt lên theo đôi mắt, tôi vội quay đầu nhìn dáo dác bốn bể, không phát hiện thấy hai ông bạn “đáng quý” đồng nghiệp kia. Thật hú hồn hú vía! Người xưa nói quả là không sai chút nào: đồng nghiệp tương khắc mà! Lúc đó tôi mới nhìn chàng trai bán lọ kia. Hắn trạc bốn mươi tuổi, khuôn mặt đen như cột nhà cháy, thô tháp như vẻ ngoài dầm sương dãi nắng đã nhiều. Bây giờ, những người như hắn đi chợ rất nhiều, tuổi thực của họ trẻ hơn nhiều so với hình vóc họ. Họ không nói năng hay chào hàng gì mà cứ ngồi bất động sau sạp hàng chờ người đến hỏi mua đồ. Tôi ngồi xổm trước mặt anh ta, thỉnh thoảng đưa tay hươ hươ mấy chân nấm rừng đã khô trong chiếc sọt tre. “Món này của anh được đấy, mua về thết bạn bè thì tuyệt đấy!” tôi giả giọng tiếng phổ thông chập chọe để bắt chuyện với anh ta. Anh ta chẳng nói chẳng rằng, nhưng nhìn vào đôi mắt đầy hy vọng của tôi. Tôi luống cuống hươ mấy cây nấm khô và hỏi: “Bao nhiêu chỗ này?”. Trên khuôn mặt hắn tỏ ra nét cười gượng gạo. Anh ta vừa ra giá tôi đã biết anh ta là người chất phác nên tôi không trả giá gì cả, cứ thế nhét vào túi đựng. Anh ta đếm một cách cẩn thận, lấy ra tờ năm mươi đồng trả lại, tuy không nói gì nhưng tôi biết đó là số tiền thừa khi mua hàng này nên anh ta trả lại cho tôi. Tôi không cầm tiền mà cầm chiếc lọ lên nói: “Anh cứ cầm đi, tôi mua chiếc bình này nhé?”. Anh ta cũng không nói gì chỉ ngẩn người nhìn tôi. Tôi cười, trong bụng như hoa xuân đang nở, đoán biết những người trong vùng hẻo lánh này chắc khó lòng cưỡng lại được sức cuốn hút của năm mươi đồng! Ở vùng này giá cả vật dụng rất rẻ, chỉ cần năm mươi đồng đủ mua được khối thứ. Nhưng tôi đã nhầm, anh ta đưa tay giật lấy chiếc lọ trong tay tôi. Lúc đó, trên mặt anh ta nở một nụ cười kỳ quái. Khi bạn thấy trên khuôn mặt chất phác ai đó bỗng nở nụ cười đầy âm mưu, thì bạn sẽ có cảm giác của tôi bây giờ. “Tiền này trả lại cho anh đấy, vật này không thể cho anh được!” Gã mặt đen nói. Tôi lấy trong túi ra mấy tờ tiền giấy như kiểu đánh bạc đưa anh ta và bảo: “Thôi thế thì tôi thêm cho anh mấy đồng vậy”. Gã mặt đen không nói năng gì chỉ cười, bây giờ nụ cười anh ta càng có vẻ quỷ quyệt hơn. Lúc đó, tôi chợt nhớ lại câu chuyện “Bà già mua mèo” rất nổi tiếng. Bà lão lấy cái bát đồ cổ thật quý để cho mèo ăn, trong khi bà ta mang mèo ra chợ bán, chẳng lẽ gã này cũng dùng chiêu mang cái lọ gốm cổ này để chào hàng mong họ mua nấm khô của mình cũng nên. Nhìn nụ cười trên khuôn mặt của gã mặt đen, tôi thấy mình không thông minh như mình nghĩ. Chiếc lọ đó kể cả hoa văn trên lọ là năm cái liền nhau nên gọi là lọ Ngũ Liên, loại lọ này chuyên đựng hồn người. Sao lại gọi là lọ đựng hồn người? Nói tóm lại, lọ Ngũ Liên là loại lọ chuyên dùng để đựng thức ăn cho người chết, là vật dụng hàng ngày của người âm. Đến nay, vẫn còn rất nhiều vùng biên giới còn tin là linh hồn bất tử, cho rằng, khi có người chết chẳng qua là cái chết của thân xác bằng xương thịt chứ linh hồn vẫn còn tồn tại nhưng lúc này đã tồn tại trong một thế giới khác. Ở thế giới đó, họ cũng sinh hoạt hệt như khi còn sống. Vì thế loại lọ này, ngoài việc cúng tế cho hồn người chết ra, nó còn là nhà ở cho người chết, họ tin rằng, hồn người chết trú ngụ trong chiếc lọ đó, nên chiếc lọ này là cầu nối giữa thế giới người sống và thế giới bên kia. Thoạt nhìn, tôi đã nhận ra ngay đó là chiếc lọ cổ, có nghĩa là ít nhất nó cũng được vài ba trăm tuổi, có thể ông tổ tiên anh ta truyền lại. Chiếc lọ này nếu được mang ra các thành phố lớn để bán, thì nó thuộc hàng độc, không biết bao nhiêu tiền, ít ai nói trước được. Nếu mua được chiếc lọ xem như chuyến này đã thành công. Trên chiếc lọ này nếu nhìn kỹ, sẽ thấy những hoa văn mờ nhạt, tôi đưa tay sờ sờ mới biết những hoa văn đó đã được vẽ trước khi đem nung. Có hình vẽ trang trí cũng là bình thường, không có gì đáng nói, điều mà nó hấp dẫn tôi là ý nghĩa của những hoa văn đó. Trong hình vẽ trang trí, họ đã chấm phá vài đường nét hình mặt người rất đơn giản, rất trừu tượng, nhưng bất kỳ ai chỉ cần nhìn kỹ là sẽ thấy đó là hình mặt người. Cuối hình mặt người có kẻ một đường sâu xuống đáy lọ, xuống gần đáy lại có hình tam giác ngược, trong hình tam giác lại có thêm mấy đường giống như cỏ vậy. Trước nay tôi chưa thấy kiểu trang trí nào như thế cả, nhưng cũng có thể nhận thấy đó là phong cách trang trí thời tiền sử. Nếu may mắn chiếc lọ này chắc cũng có hơn vài nghìn năm tuổi, như thế, nếu mang ra thành phố hiện đại thì cái giá của nó phải lên đến con số ngoài sức tưởng tượng của tôi. Càng nghĩ tôi càng thấy trong lòng khoan khoái nao nức, càng nao nức thì càng không thể bỏ qua cơ hội này. Nhưng bất luận nói gì, gã mặt đen kia vẫn lắc đầu, vẫn cứ cười nụ cười bí hiểm đó. Sao mình lại có thể thất bại dưới tay một kẻ ngu dốt mọi rợ này được! Thế mà tôi lại bó tay hết cách trước gã mặt đen quê mùa dốt nát này. Tôi nghĩ hay phải tìm cách khác? Thế là sau khi tan chợ tôi ngầm theo bước gã mặt đen kia. Tôi nghĩ, chiếc lọ này không thể cất giữ riêng biệt, có lẽ trong làng này còn có nhiều thứ khác tương tự. Chỉ cần theo chân gã, đi đến ngôi làng mà gã đang sống chắc còn nhiều thứ đồ cổ quý giá khác, không chừng tôi sẽ phát hiện được hàng loạt bảo bối như thế hoặc tương tự như thế. Đến lúc đó ta có thể mặc sức mua vài kiểu, tha hồ kiếm lãi! Gã mặt đen đến cuối chiều tan chợ mới về, vì tôi đã chuẩn bị trước, nên mang theo vài thứ cần thiết, tôi lẽo đẽo bám theo anh ta. Gã đi bộ, tuy lưng cõng một cái sọt to đùng nhưng vẫn lao như tên bay trên con đường sườn núi về nhà. Thật khổ cho tôi, tôi chưa bao giờ phải chịu như vậy, vừa bò vừa trườn bám theo anh ta không để lạc mất, lại vừa phải cố gắng không cho anh ta biết. Trời càng lúc càng tối, màn đêm vây bủa xuống núi rừng, cứ nhấp nhem những thứ gì không rõ lắm, chúng giống như những quái thú ẩn trong đêm. Những con chim lạ cứ kêu hoài không thôi, các động vật rắn rết không nhìn rõ lắm cứ lấp la lấp loáng. Tôi thấy hai chân nặng như mang chì, vừa đi vừa run, không phải tôi là thằng nhát gan, nếu là người khác thì cũng khiếp vía giống tôi thôi. Sau đó, tôi đi như cái máy, động lực giúp tôi tiếp tục đi được là chiếc bóng của gã mặt đen trước mắt, vì thế nếu để lạc mất anh ta thì tôi sẽ rơi vào thảm cảnh nếu không bám theo anh ta, thực tình tôi không biết sẽ phải đi về đâu, bốn bề là rừng rậm bao la, dãy núi trước mắt chỉ còn sót lại vài chiếc bỗng thưa thớt, cứ dật dờ không nhìn rõ ra được. May mà khi trời tối anh ta đã thắp đuốc lên, tôi cứ thế bám theo ngọn đuốc, không biết đã đi được bao lâu, bỗng tôi hẫng người như đi vào khoảng trống, ngã lăn nhào lộn tròn mấy vòng… Khi dừng lại, trên vai đau buốt như bị ai đâm, nhưng cũng may là không bị bong gân trật khớp gì. Ngẩng đầu lên, tôi không thấy ánh đuốc nữa. Tôi ngẩn người một lát, rồi nhanh chóng nhận ra ngay hậu quả của việc không tìm ra ánh đuốc. Tôi đã mất phương hướng trong cánh rừng bạt ngàn giữa đêm đen, nếu may mắn, tôi chỉ sống sót như một người rừng. Tôi dần thấy sợ, nỗi sợ và lạnh đã ngấm vào tôi, đục khoét tôi. Đột nhiên tôi chạy về phía trước, tôi phải tìm ra gã mặt đen trước khi anh ta đi khuất quá xa. Lúc đó, tôi không còn thời giờ để giấu mình nữa, tìm ra một người bạn trong lúc này còn quý hơn cả vàng bạc. Gã mặt đen thực sự mất dấu, tầm mắt tôi nhìn ra đâu cũng chỉ thấy một màu đen kịt của đêm trong núi rừng. Trước mắt có cái đuốc thấp thoáng, tôi bò lên, thở phào nhẹ nhõm. Trước dốc là một bức tường đứt đoạn, tôi đang trên bức tường bị đứt đó. Gió từ xa thổi lại, chiếc áo ướt đẫm mồ hôi dính sát vào người lạnh tanh, tự nhiên tôi thấy sảng khoái. Điều khiến tôi vui mừng hơn đó là trước bức tường đứt, có mấy điểm sáng của ánh đèn lấp loáng như sao rụng. Hơn nữa mấy điểm sáng đó cứ tiến lại gần nhau hơn. Chùm sáng di động chắc là ánh đuốc của gã mặt đen, còn mấy điểm sáng đó chắc là làng mạc… Lúc đó, niềm vui cuối cùng đã làm chùng dây thần kinh của tôi, cái mệt nhọc bọc lấy tôi như màn đêm đang bủa vây lấy núi rừng, vũ trụ vậy. Tôi ngồi bệt trên mặt đất thở hổn hển… Lúc đó, tôi nghe sau lưng có tiếng gì như tiếng dế, quay phắt cả lại nhìn về phía phát ra tiếng kêu, tôi chẳng thấy gì cả! Nhưng tiếng dế kia vẫn còn. Tôi rùng rợn hết cả người, động vật kỳ quái, không biết giờ nào là giờ kiếm ăn của chúng, không chừng tôi lại trở thành mồi ngon trong miệng chúng. Tôi cẩn thận đứng dậy, nhìn quanh bốn phía không thấy vật gì làm vũ khí. Tiếng kêu đó ngày càng to, lúc đó, trong tiếng dế tôi còn nghe thấy cả tiếng bước chân người. Tôi theo gót gã mặt đen đã lâu, ngoài hai chúng tôi không thể có người nào khác. Lúc đó đã hơn nửa đêm, lại còn ai ở đây làm gì nữa chứ? Sau lưng tôi là vực sâu muôn trượng, không thể rút lui, tôi đành đứng yên bất động đợi tiếng bước chân càng lúc càng gần. Cuối cùng tôi thấy hai bóng người xuất hiện dưới ánh trăng, tuy không nhìn rõ hình dáng họ, nhưng tôi nhận ra chúng, tên đầu trọc Vương Lỗi và Đàm Xuyên. Không phải chúng đang ở lại trong chợ để mua đồ cổ sao, sao chúng lại xuất hiện ở đây. Tôi nghĩ mãi mới suy đoán rằng, chắc chắn chúng cũng đã nhìn thấy chiếc lọ của gã mặt đen. Chúng cũng như tôi, không thể dùng mánh khóe nghề nghiệp để mua chiếc lọ kia được, nên mới bám gót tên mặt đen này rồi đến đây. Bây giờ, cả Vương Lỗi và Đàm Xuyên thấy tôi, chúng gọi tên tôi, hớn hở cười cười nói nói lại gần tôi. Tôi đứng sững người nhìn họ với ánh mắt trìu mến. Tôi không giận vì họ đã tranh giành với tôi và đã bám gót tôi, từ hồi chiều chúng đã theo tôi, suốt chặng đường chúng không gọi tôi cũng không để tôi phát hiện ra. Đây gọi là bọ ngựa bắt ve sầu không ngờ chim sẻ đứng sau lưng, rõ ràng chúng đã tính trước tôi, trên con đường này mà gặp được bạn thì còn quý hơn vàng, có bạn không những khiến cho mình gan dạ hơn mà còn có thể giải quyết được khá nhiều việc. Tôi nhặt hai viên đá nhỏ ném về phía chúng. Chúng cùng cười rộ lên sảng khoái, tên đầu trọc Vương Lỗi nói: “Anh quả là gan dạ thật, một mình đi xa thế, anh em chúng tôi khâm phục anh rồi đó!” Dưới chân núi là ruộng lúa mênh mông. Lúa đang thì trổ bông, từng cơn gió thoảng qua làm những đám lúa có mấy hình nộm, dưới ánh trăng mờ tuy không nhìn thấy được vẻ hung tợn của nó. Tôi cùng tên Vương Lỗi, Đàm Xuyên, cả ba người, đang băng mình trên đường bờ ruộng, nhắm thẳng về phía ngôi làng trước mặt. Đêm đã về khuya, mấy ngọn đèn thấp thoáng trên núi giờ đã tắt, chỉ còn lại lưa thưa vài ánh sáng yếu ớt. Vì chúng tôi gồm có ba người cùng đi chung lên cũng khá bạo gan, vừa đi vừa kể chuyện cười… Tâm lý của chúng cũng giống tôi, cũng muốn vào làng này kiếm được vài thứ đồ cổ mang về. Nhưng không ai dám chắc được kết quả ra sao. Vào làng, chỉ thấy mấy ngôi nhà xây bằng gạch đá, chắc chắn những ngôi nhà đó cũng đã có tuổi! Trong các kẽ hở giữa bức tường đá, mọc đầy những cây hoang cỏ dại. Đường làng tiếp nối với các bờ ruộng nhỏ ngoài đồng, chúng tôi chung bước trên con đường nhỏ, cứ dáo dác nhìn quanh bốn phía, nhưng cả ngôi làng vẫn đang chìm trong im ắng, đâu đâu cũng lặng ngắt như tờ, cả tiếng chó cũng chẳng nghe thấy. Ánh trăng lạnh lùng rải xuống ngôi làng và núi rừng hoang dại. Lúc đó, cả ba chúng tôi đều cảm thấy lạnh người, ngôi làng ngập chìm trong hơi sương lạnh buốt. “Hay là chúng ta tìm chỗ dừng chân tá túc trước đã?” tên trọc đầu Vương Lỗi nói. Chúng tôi đã đi hết cả một buổi chiều, lại tiếp thêm leo núi từ chập tối đến hơn nửa đêm, người hết chịu nổi. Bây giờ mà có được bữa cơm no rồi lăn đùng ra chiếc giường sạch sẽ thì đó là thiên đường của chúng tôi bây giờ. Nhưng ngôi làng lặng ngắt không một tiếng động, ngay cả bóng ma cũng chẳng tìm thấy, nhà cửa đóng then cài lấy đâu ra nơi cho chúng tôi tá túc? Tôi muốn đến sườn núi, nơi có ánh đèn chưa tắt, chắc họ cũng chưa đi ngủ… Thế là việc kế tiếp của chúng tôi là phải tìm ra ngôi nhà nào có đèn còn sáng gần chúng tôi nhất. Những nhà như thế cũng đang chờ chúng tôi đến tìm ngủ trọ! Chúng tôi đứng trước cổng một ngôi nhà đèn đang sáng nhìn nhau rồi tôi đi lên gõ cửa. “Cốc cốc cốc”. Tiếng gõ cửa trong đêm vắng nghe rất chối tai. Một lát sau, bên trong nghe có tiếng bước chân, rồi lách cách mấy tiếng, cánh cổng mở ra… Cả ba chúng tôi thụt lùi mấy bước, người ra mở cổng lộ vẻ đầy hoài nghi. Trong cánh cửa có cô bé khoảng mười tuổi, tóc dài quần trắng. Mái tóc buông xuống phủ kín hai má, đôi mắt lấp lánh sau mái tóc đen óng, đờ đẫn nhìn ba chúng tôi. Tôi tin rằng, cô bé này không cần phải trang điểm, nếu cứ thế mà đóng phim kinh dị thì rất đúng vai, còn phải trang điểm gì! Nửa đêm canh ba, bất chợt trông thấy cô bé như thế thì dù gan có to đến mấy cũng phải run chân đứng không vững. Tôi đánh bạo tiến lên mấy bước chần chừ hỏi: “Cô bé, cho hỏi ở trong làng này có nơi nào có thể nghỉ qua đêm không?”. Vốn là muốn xin tá túc trong nhà này nhưng trông cô bé hình thù quái dị, nên chúng tôi đành đánh trống lảng, không dám xin nghỉ trọ nữa. Cô bé không đáp, không có cử chỉ nào biểu hiện phản ứng sau khi nghe tôi hỏi. Đôi mắt như ánh lửa chớp chớp, rồi nó cúi mình sang một bên. Ánh đèn từ sau lưng cô bé rọi tới, chúng tôi nhờ thế bạo dạn hơn, lúc đó, có giọng nói đàn ông từ trong nhà vọng lại: “Có phải là ba người ngoài làng đúng không?”. Tôi cả kinh, người trong kia không ra sao lại biết ba người chúng tôi từ ngoài làng đến? Đợi đến khi người kia xuất hiện sau tấm cửa, chúng tôi mới thở phào nhẹ người. Không ai khác mà đó chính là người đã dẫn chúng tôi tới đây. “Sao các anh phải khổ thế? Tội tình gì chứ?”. Gã mặt đen tiến tới trước mặt chúng tôi, khuôn mặt tỏ ra tiếc nuối. “Nếu anh bán cho tôi cái lọ NGŨ LIÊN đó thì việc gì chúng tôi phải khổ sở lặn lội đường xa đến đây”. Tôi đáp. “Ư hừ… được rồi, các anh đã đến thì trước tiên hãy vào nhà tôi nghỉ lại một đêm đã, sáng mai tôi sẽ đưa các anh về”. Tên đầu trọc Vương Lỗi và Đàm Xuyên hình như muốn tiến lên nói gì đó nhưng thấy tôi đưa mắt ra hiệu là cả hai thôi không nói nữa. Gã mặt đen dẫn chúng tôi đến một căn phòng, trong phòng chỉ có một cái giường và một cái cửa sổ mở ra phía con đường lúc nãy chúng tôi đi đến đây. Mở cửa ra, cả ba chúng tôi ngồi trên giường sáu mắt nhìn nhau. Trong vùng cực kỳ hoang vắng hẻo lánh này, chỉ cần có chiếc giường là được rồi, cả ba chúng tôi người to như con tượng, không thể nằm chung trên một chiếc giường nhỏ này được, nhưng có giường để ngồi tựa mà ngủ cũng là lý tưởng! “Ngày mai, ngày mai các cậu thực sự dự định quay về chứ?” Tên nói năng ấp úng hỏi chúng tôi. “Qua đêm nay hẵng hay”. Tên đầu trọc không chút lo âu gì nói: “Đến sáng sớm mai, chúng ta đi dạo trong vùng này xem sao, các ông mày đã đến đây rồi chẳng lẽ lại về không!”. “Thế thì chúng ta cứ thế mà làm, sáng sớm mai, ai đi đường nấy, tìm được cái gì thì được, điều đó còn trông vào vận may của mỗi người, cả ba chúng ta cùng nghề nhưng chỉ cần không ai chơi đểu ai là được”. Tôi nói với hai gã kia. Cả hai tên kia cũng gật đầu đồng ý, đã nói rõ rồi là không ai được làm chuyện lợi mình hại người đâu đấy. “Anh nghe kìa, tiếng gì vậy?” Vương Lỗi bỗng chau mày vểnh tai nghe! Hắn không nói tôi cũng nghe thấy âm thanh đó, âm thanh như thực như hư, hình như có người đang khóc, nghe lại như có ai đang hát. Bạn có thể cảm nhận được sự tồn tại của nó, nhưng bạn định thần để nghe kỹ thì âm thanh đó lại như tan biến vào không gian… khiến bạn không thể nào phân biệt đó là tiếng gì… Tôi đứng dậy đi đến bên cửa sổ, âm thanh đó hình như nghe rõ hơn dưới ánh trăng. Bỗng mắt tôi như căng lên, tôi dường như không tin vào mắt mình nữa, cô bé vừa rồi mở cửa cho chúng tôi đang ngồi dưới ánh trăng cầm chiếc lọ NGŨ LIÊN thì thầm điều gì như đang nói chuyện với chiếc lọ vậy. Không nghe rõ nó nói gì nhưng trông rất rõ dáng vẻ của nó, nó nói chuyện và đối đãi với chiếc bình như là trong đó có người vậy. Âm thanh lúc thực lúc hư vừa rồi đích xác là do cô bé nói. “Cô bé này làm cái quái gì thế nhỉ?” . Tôi hỏi mình với tâm trạng đầy nghi ngờ. Hai cậu bạn kia chạy đến cửa sổ, lúc đó, cả gã mặt đen cũng đến bên cô bé kia. Hắn lặng lẽ ngồi sau lưng nó, một lúc lâu mới đến gần vỗ vai nó. Cô bé ngúng nguẩy đẩy tay gã mặt đen ra, hình như họ giận nhau điều gì. Gã mặt đen trầm ngâm một hồi, không vỗ vai cô bé nữa, quay mình trở lại phòng. “Các cậu đã trông thấy rõ ràng cả rồi chứ?” Cửa phòng chúng tôi tự nhiên mở toang ra, gã mặt đen không biết đến cửa phòng từ lúc nào, mặt gã ủ rũ nhìn chúng tôi bảo: “Các cậu cứ ngủ đi, trời sắp sáng rồi đó, ngày mai các cậu còn phải đi một chặng đường dài nữa đó”. “Cô bé kia là ai? Có phải con gái anh không? Hình như nó đang giận anh thì phải”. Vương Lỗi cười hỏi bắt chuyện. “Nó là con gái tôi, người trong làng đều gọi nó là Tiểu Cúc. Ba năm trước, mẹ nó lên núi hái thuốc, bị ngã chết, sau cú sốc nặng nề đó, tâm lý nó đã thay đổi hẳn, nó không thèm nói chuyện với ai nữa, trừ chiếc lọ đựng hồn kia”. Gã mặt đen đáp. “Có phải vì thế mà anh không chịu bán chiếc lọ đó cho chúng tôi?” Tôi hỏi. Gã mặt đen gật đầu đáp: “Tiểu Cúc suốt ngày mê mẩn chiếc lọ đó, nên tôi cứ đi đâu thì thường mang theo chiếc lọ, như thế thì Tiểu Cúc mới chơi đùa như những đứa trẻ khác. Nhưng hễ cứ thấy chiếc lọ, nó liền nói chuyện với linh hồn mẹ nó, làm như thể có người trong đó mà chỉ nó mới nhìn thấy.” Gã mặt đen nói với giọng sa sầm, mới nghe tôi đã sởn hết cả gai ốc, bên kia, hai anh em cũng không hề động đậy. Gã mặt đen do dự chốc lát, hình như hắn đang nghĩ điều đó, nhưng hắn không nói gì thêm, quay đầu đi thẳng. Hai tên kia ngồi trên giường, lưng tựa vào vách, chốc chốc lại ngáy khò khò. Tôi cũng buồn ngủ không kém nhưng không thể nào ngủ được. Không biết bao lâu sau tôi mới nhổm dậy tìm thuốc hút, vô tình đến bên cửa sổ, không thấy cô bé ngoài kia nữa, chỉ còn chiếc lọ nằm ngoài sân. Tôi thoáng nghĩ, có chút căng thẳng và ngoái đầu lại nhìn hai tên kia, một tên ngủ chảy cả nước dãi, tên còn lại cứ chép chép mồm liên tục, chắc hắn mơ đang ăn thứ gì đó! Tôi khẽ khàng mở cửa, nhẹ như con mèo rình mồi, lách ra khỏi cửa, cúi xuống nhặt chiếc lọ lên. Nhịp tim tôi bỗng tăng nhanh, nhưng hơi thở có lúc như ngừng lại. Cầm chiếc lọ đựng hồn trong tay, kinh nghiệm bản thân cho biết chắc chắn đó là chiếc bình cổ, nhưng tạm thời tôi vẫn chưa xác định được niên đại của nó. Tôi lật đi lật lại xem từng chi tiết trên chiếc bình, quên cả đề phòng có hai bóng người từ từ đi đến. Tôi đột ngột phát hiện liền quay người định lẩn đi. Bỗng khắp mình lạnh toát, tôi không thể đứng vững được nữa, cả chiếc lọ trong tay cũng rơi xuống đất từ lúc nào không hay. Sau lưng tôi có hai người nữ, cô nhỏ là Tiểu Cúc, còn bên cô bé là một phụ nữ trung niên, mái tóc rất dài, rối tung như tơ vò phủ lên chiếc hộp sọ, mình mặc chiếc áo dài đỏ, trong chiếc làn trên tay bà ta hình như có nước, không phải! Không biết thứ gì nhưng đó là một chất lỏng màu đỏ thẫm đang rỉ từng giọt xuống nền đất. Người phụ nữ trung niên đó cầm tay cô bé, hai người hình như rất thân thiện với nhau. Cả hai đều đứng sau lưng tôi, sắc mặt không có chút biểu lộ gì cả, giống như hai pho tượng. Bỗng tôi nghe cô bé gọi hai tiếng, đầu tôi như vỡ ra. Quả thực tôi nghe cô bé gọi “ma ma”. Người phụ nữ đó nắm chặt tay cô bé, cô bé mặc chiếc váy trắng, bỗng chốc dính đầy máu đỏ, lúc đó không nghi ngờ gì nữa, chắc chắn trên mình người phụ nữ trung niên kia đang chảy máu. Đầu tôi cứ kêu lên ong ong, trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, tôi đã bị sốc - không ai có thể chịu đựng sự kích thích như thế - nửa đêm canh ba bỗng xuất hiện trước mặt một thi thể phụ nữ đầy máu, hơn nữa người phụ nữ đó lại là mẹ cô bé kia! Nhớ lại lúc nãy gã mặt đen bảo, ba tháng trước, vợ hắn đã chết vì bị ngã khi lên núi hái thuốc. Sau đó, cô bé chỉ nói chuyện với chiếc bình, nó xác định là mẹ nó đang ở trong chiếc bình kia. Không biết thực hay mơ, tôi cũng không xác định được liệu gã mặt đen kia có nói thật với tôi về chuyện này hay không. Nhưng quả thực đây là một pha sốc lớn nhất trong đời tôi. Khi chưa xác định được hư thực thế nào thì dù sao sự xuất hiện của phụ nữ nhuốm máu đó cũng làm tôi khiếp hãi đến vỡ mật. Chiếc áo dấy máu đó chắc phải nhuộm máu mới như thế. Nếu là máu thực thì từ đâu ra? Sao phải làm thế? Tôi không đủ can đảm để suy luận việc này, nhưng trong lúc sợ hãi đến tột đỉnh người ta thường có những phản ứng mà chính bản thân mình cũng không biết. Đối diện với hai người kỳ lạ đó, tôi đã có một quyết định mà tôi nghĩ mười người thì hết mười một người sẽ làm như tôi, đó là tháo chạy như điên theo những con đường nhỏ trong làng. Ký ức cuối cùng là tôi đã ngã lăn nhào, đầu bị đập xuống đất, sau đó tôi không còn nhớ gì nữa. Ánh mặt trời buổi sáng chiếu lên mặt làm chói mắt khiến tôi tỉnh dậy. Tôi đưa tay lên làm gối, rồi từ từ ngồi dậy. Đầu đau như búa bổ, ký ức hôm qua từ từ tua lại trong đầu bỗng thấy sợ - cô gái nói chuyện với chiếc lọ rồi chuyện người người phụ nữ xuất hiện với áo quần be bét máu… Nhớ lại chuyện hôm qua, tôi cho đó chỉ là một cơn ác mộng, không có gì phải sợ nữa, vì nó chỉ là hư ảo. Nhưng nếu đó không phải là chuyện thực thì tại sao bây giờ tôi lại đang nằm trên ruộng lúa? Tôi còn nhớ rõ là mình đã tháo chạy như ma đuổi, cứ hết con đường nhỏ này lại ngoặt sang con đường khác, không còn biết lựa đường mà chạy nữa, cuối cùng tôi đã ngã xuống bất tỉnh, nếu không có hai mẹ con nhà kia xuất hiện thì tại sao tôi phải chạy? Ngôi làng nằm cuối ruộng lúa, chỉ cần tôi về nhà hỏi gã mặt đen thì mọi chuyện sẽ rõ. Còn nữa, hai gã Vương Lỗi và Đàm Xuyên tối hôm qua cũng ngủ trong nhà hắn, không biết giờ đã ra sao rồi. Chắc là chúng đã đi quanh làng để truy lùng cổ vật. Bất luận thế nào, trước tiên phải quay về làng đã. Tôi đứng dậy bước đi, đôi chân còn nhức mỏi, không biết đêm qua thế nào mà hai cánh tay cứng đơ không cử động được, đi một lát dưới ánh bình minh mới phục hồi trở lại. Lúc đó, tôi đã đến cổng làng. Trong làng vẫn im ắng, không có chút động tĩnh gì. Bỗng tôi có một cảm giác kỳ quái - trong ngôi làng này giờ không có người nào, ngoài tôi ra! Tôi ngẩng đầu nhìn mặt trời chói lóa, điều an ủi tôi duy nhất lúc này là hãy nghĩ rằng, tất cả mọi chuyện đã xảy ra chỉ là ảo giác. Tối qua, tôi còn ở trong làng này, gã mặt đen và cô con gái của hắn nữa cơ mà, còn có cả người vợ đã chết rồi của hắn! Sao nay lại chẳng thấy bóng ma nào thế? Để xua đi nỗi bất an trong lòng, tôi tiếp tục tiến vào trong làng. Trong làng yên tĩnh đến lạ thường, trên con đường, không những tôi chẳng thấy ma nào mà ngay cả nhà cửa vẫn như hôm qua, vẫn đóng im ỉm. Để tự xoa dịu mình, tôi nghĩ, người trong làng này đóng chặt cửa lại là để thăm dò người lạ mặt đến từ xứ khác là tôi. Nhưng sự im lặng quá mức đó khiến tôi có cảm giác như đang nằm mơ giữa ban ngày. Men theo con đường làng nhỏ hẹp, cuối cùng cũng tìm đến được ngôi nhà mà hôm qua tôi đã dừng chân, vừa đến nhà, tôi đã nhìn thấy chiếc bình NGŨ LIÊN đang nằm nghiêng ngửa trước cửa nhà cách tôi không xa. Hình như từ khi tôi đánh rơi nó tối qua đến giờ vẫn chưa ai đụng vào! Tôi vội chạy đến nhặt chiếc bình lên, cũng chính vì chiếc bình quỷ quái này mà tôi đến ngôi làng này, nay tôi mới hối hận, nếu có thể, tôi bằng lòng từ giã ngôi làng này ngay lập tức, đương nhiên, tốt nhất là cuỗm theo luôn chiếc bình này! Tôi gõ cửa, vừa đẩy cửa đã mở ra, tôi do dự một lát rồi vẫn cứ vào nhà. Mỗi căn phòng tôi đều tìm một lượt nhưng không thấy người nào. Căn phòng mà tối qua tôi và hai gã đồng nghiệp đã xin tá túc cũng nguyên xi như cũ, hai gã kia cũng không thấy đâu, tôi nghi rằng chúng đã bị gã mặt đen đuổi đi. Ra khỏi nhà gã mặt đen, lòng tôi bỗng thấy nặng nề, một dự cảm báo cho biết sẽ có chuyện không hay xảy ra đến với tôi. Người trong làng này đi đâu cả rồi nhỉ? Tôi tự hỏi. Tôi lẹ rảo bước sang nhà khác, đẩy cửa, quả nhiên không nhà nào đóng cửa, mới đẩy nhẹ cửa đã mở toang ra. Tôi đi vào như vào nhà mình, tìm khắp, chẳng thấy có ma nào! Vừa giận vừa sợ, tôi tháo chạy, lại tìm đến nhà khác. Cứ thế tiêu mất của tôi hơn giờ đồng hồ, cuối cùng tôi ngã gục trên một ruộng lúa ngay ở giữa của ngôi làng này. Ngôi làng khá nhỏ, chỉ khoảng vài chục hộ dân, hầu như nhà nào tôi cũng tìm một lượt, nhưng nhà nào cũng không thấy một bóng người. Cả ngôi làng, trừ tôi ra, không thể tìm thấy một bóng người nào khác. Chẳng lẽ người trong làng này đều chết hết cả rồi sao, mới chỉ nghĩ như thế tôi đã rùng mình! Vương Lỗi và Đàm Xuyên đâu? Tối qua họ đã gặp những chuyện quỷ quái gì? Giờ họ có bình an không? Bất chợt tôi nhảy dựng lên, chạy đến cổng làng, ngôi làng này quả thực quá quái quỷ, không thể ở lâu trong ngôi làng này được. Giờ thì tôi đã tìm thấy cái mà tôi cần tìm, tốt nhất là nên chạy đi, càng xa càng nhanh càng tốt. Hơn nữa, bây giờ là mười hai giờ trưa, nếu thuận lợi, thì tôi sẽ đến được thị trấn trước khi trời tối. Rời xa ngôi làng này ngay, ngôi làng quái quỷ này không còn quan hệ gì với tôi nữa. Trước khi đi, tôi còn mang theo cả chiếc bình đựng hồn người kia nữa. Có nó trong tay, chuyến đi này xem như đã thành công mỹ mãn. Rời làng, phải băng qua cánh đồng lau sậy, khi đến tôi đã đi theo con đường này. Nhưng còn cách cánh đồng khoảng hơn mười mét, tôi dừng lại. Trước mặt, bên ruộng lúa, có một người đứng sẵn, trên đầu đội mặt nạ to đùng, chiếc mặt nạ có hình thù trừu tượng, kỳ quái, nhưng cũng có thể hình dung ra đó là hình thù của một con dê. Trên mình mặc chiếc áo choàng trắng, hai tay duỗi thẳng, hai chân rời đất khoảng một thước. Không ai có thể đứng cách mặt đất, trừ phi đó là người nộm bằng cỏ. Quả đúng không sai, người đứng trước mắt tôi là một hình nộm bằng rơm, tối qua, khi đến làng này tôi đã có nhìn thấy. Chỉ có điều không biết tại sao hôm nay nó lại nằm ngay trên đường đi. Tôi nhìn quanh, ruộng lúa mênh mông không thấy bờ, đằng xa tít bên kia hình như cũng có hai người nộm bằng rơm nữa. Tôi cẩn thận đi lên, rồi từ từ rảo quanh người nộm, đang định đi tiếp thì bỗng sau lưng có gì đang cử động, hình như còn có cả tiếng dế trong chiếc hình nộm đó nữa. Quay đầu nhìn lại, tôi chỉ thấy bóng hình người nộm! Kỳ quái! Nhìn xuống chân người nộm, tôi thấy có một chiếc gậy gỗ, chiếc gậy đang rỉ máu xuống. Tôi giật thót, người như khựng lại, định thần nhìn kỹ, quả nhiên không sai, người nộm bằng rơm đang chảy máu! Người nộm gắn chặt trên chữ thập, lúc đó, máu từ chân người nộm chảy tràn ra cả mặt đất, khắp một mảng đất rộng bị máu thấm ướt, vì màu đất tối nên vừa rồi tôi không để ý. Tôi nghe tiếng thở hổn hển của mình, đôi chân cũng đang run lên bần bật. Tôi có thể rời ngôi làng này cho dù người nộm đó có chảy nhiều máu hơn nữa, nhưng tôi vẫn còn hiếu kỳ, tôi biết, đó chỉ là máu giả do người khác tạo ra, vậy đằng sau người nộm đó chắc chắn phải có người thật đang ẩn mình. Hắn là ai? Tính mạng hắn đang ngàn cân treo sợi tóc, thế ai đã buộc người thật làm giả thành người nộm? Tôi lẩm bẩm, từ từ tiến lại gần người nộm kia, đôi tay run run đưa lên lấy chiếc mặt nạ kia xuống. Đó là tên đầu trọc Vương Lỗi. Hắn vẫn còn sống nhưng không sao cử động được, đôi mắt hắn mở to nhưng có vẻ đã mất hết sức sống, môi mấp máy, hình như hắn muốn nói với tôi điều gì, nhưng hắn yếu đến nỗi không nói thành lời. Nỗi kinh ngạc lúc đầu đã qua, nhưng điều mà tôi lo lắng đã trở thành hiện thực. Nếu không gặp Vương Lỗi thì tất cả những hiện tượng quái dị, đằng sau nó ẩn chứa điều gì bí mật đều chỉ được trả lời bằng suy đoán của tôi. Nay, chúng đã lộ nguyên hình. Ngôi làng ẩn mình sau rừng sâu núi thẳm này quả nhiên là cạm bẫy đầy nguy hiểm, chết chóc. Tôi từ từ cởi trói cho Vương Lỗi, sau khi hắn nằm xuống đất, tôi mở nốt chiếc áo choàng cho hắn, trên tay chân hắn, mỗi nơi đều có vết dao, máu tươi chính là máu thực chảy ra từ người hắn. Vương Lỗi không nói được lời nào, nhưng đôi mắt ứa lệ, trên khuôn mặt đầy nỗi khiếp hãi và có chút hy vọng gì đó. Tôi biết hắn sợ tôi bỏ rơi hắn, hy vọng tôi có thể mang hắn trốn khỏi ngôi làng này. Nhưng lúc này nếu cứ ở lại đây càng lâu thì càng nguy hiểm, hơn nữa, tôi không biết kẻ nào đã hại hắn ra nông nỗi này. Nên lựa chọn tốt nhất bây giờ của tôi là bỏ rơi hắn, một mình trốn đi, còn nếu cứ cố mang theo một người đã kiệt hết sức, lúc gặp chuyện không những không bảo vệ được hắn mà ngay bản thân cũng khó vẹn toàn. Tôi phải chọn nhanh một trong hai quyết định, cuối cùng tôi thở dài than vãn rồi cõng Vương Lỗi lên chạy. Hôm qua, cả hắn cùng Đàm Xuyên ở với nhau, không biết tối hôm qua họ gặp phải chuyện gì mà Vương Lỗi đến nước này, từ đó đoán chắc rằng tình cảnh của Đàm Xuyên cũng chẳng hơn gì đâu! Nếu kẻ hãm hại Đàm Xuyên và Vương Lỗi rắp tâm sắp đặt như thế này, thì hắn khó lòng để tôi toàn mạng mà về được. Lúc này, e rằng chúng đang rình theo tôi rồi cũng nên, nếu tôi cứ tiếp tục đi trong ruộng lúa thì không biết mối hiểm họa chết người sẽ chờ tôi ở điểm nào đây! Đương nhiên tôi cũng không thể để chúng muốn làm gì thì làm mà không chống cự, trong tôi cũng đang có một bí mật, không đến lúc dầu sôi lửa bỏng thì tôi quyết không để người khác biết được. Cho nên, tôi quyết định trở lại ngôi làng kia, điều tra rõ tất cả mọi chuyện, xem thử chuyến này có hy vọng nào không để cứu Đàm Xuyên - người hiện nay đang không biết thất lạc ở đâu. Chính vào lúc đó, tôi bỗng bị một cú đánh mạnh vào đầu, trời xoay đất chuyển, cả thế giới như quay tròn... tôi ngất đi, Vương Lỗi trên lưng tôi cũng ngã lăn nhào theo. Trong mê loạn, tôi thấy tên Vương Lỗi vốn đang nằm yên bỗng cử động, rồi hắn vùng dậy ngồi, trong mơ hồ, tôi thấy khuôn mặt hắn hung tợn kinh khủng! “Anh ạ, xin lỗi nhé, chúng bảo nếu không đánh ngã anh thì chúng sẽ không buông tha cho em”. Hắn nói. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng, nghĩ rằng đời mình sẽ kết thúc tại đây. Nghĩ rồi tôi rơi vào hôn mê bất tỉnh. Trong cơn mê, tôi mơ hồ cảm thấy hình như có rất nhiều người xuất hiện, tay chân tôi bị buộc chặt, treo ngang trên một chiếc đòn, hai bên có hai người khiêng, mình tôi lắc lư theo nhịp chân họ. Lắc lư mãi rồi tôi tỉnh lại, cố mở to mắt nhìn qua kẽ hở, chỉ nhìn thấy người đang khiêng sau tôi, hắn mặc chiếc áo choàng màu đen, trên mặt đeo chiếc mặt nạ hình đầu trâu. Lúc đó tay chân tôi đã bị buộc chặt vào đòn khiêng, giống hệt như con lợn béo đang chở đi mổ thịt! Tôi không dám cử động gì, cứ giả vờ đang ngất. Cứ thế họ khiêng tôi đi khoảng hai mươi phút. Lúc dừng lại, tôi bị họ thả rơi tõm xuống đất, tôi nheo mắt lại nhìn, bốn bề là đồng lúa xanh rờn, còn có rất nhiều bàn chân, có chân để trần, có chân còn tục bó chân, không cần nhìn mặt họ tôi cũng biết đó là dân chúng trong làng, lúc sáng, tôi ngạc nhiên tại sao trong làng không có ai, hóa ra họ đều đến tụ tập ở đây. Đây là đâu? Tôi cố giương to đôi mắt, nhanh chóng phát hiện ra đây là vùng trung tâm của đồng ruộng, tức là tôi đang nằm trong cánh đồng mênh mông đó. Quả nhiên trong cánh đồng có một vùng đất khá rộng. Những người sống bằng nghề trồng hoa màu, họ quý đất hơn quý mạng sống của mình, tại sao họ lại chừa ra một khoảng trống lớn như thế giữa đồng được? Tôi vẫn giả vờ hôn mê bất tỉnh, một gáo nước tạt vào mặt tôi, nếu không mở mắt, quả thực tôi không thể chịu nổi cái cách họ làm để tôi tỉnh lại này. Tôi từ từ đứng dậy, như thế tôi mới thấy rõ hơn. Lúc đó, tôi phát hiện vùng trống trong ruộng lúa có hình tròn, xung quanh treo đầy cung tên, dân làng trai có gái có, trẻ có già có đứng đông nghịt, tay chân da thịt thô ráp đen trũi. Ở trung tâm của khoảng đất trống đó đặt một tảng đá lớn, cao ngất như một ngôi nhà hai tầng, trông hệt như một trái núi nhỏ. Tôi nghĩ bụng, có lẽ việc dân làng chừa lại khoảng đất này có liên quan đến tảng đá, bởi vì trên tảng đá đó tôi thấy có hình vẽ quen quen. Dưới hình mặt người được vẽ cách điệu có hai đường vẽ, phần cuối đường vẽ có hình tam giác ngược, trên mặt nó có nhiều cây cỏ rậm rạp. Lần đầu tiên tôi thấy hình vẽ này trên chiếc bình Ngũ Liên của gã mặt đen. Trước tảng đá có ba chiếc giá hình chữ thập, trong đó có một chiếc đang trói một người, chính là Đàm Xuyên. Lúc đó tôi hãi quá hình như không giữ được tỉnh táo nữa. Hắn bị trói trần trên giá, chỉ chừa lại chiếc quần nhỏ sát người, hai tay bị trói dang ra theo cọc ngang trên cái giá chữ thập, thoạt nhìn giống như chúa Giê-su bị nạn. Trong khi bị trói, cả hai tay hai chân gã cũng bị như Vương Lỗi, đều bị đâm thủng mấy vết, máu tươi đang từ từ rỏ xuống. Trên một trong hai cái giá còn lại, dân làng đang treo tên Vương Lỗi lên, một lúc sau cả hai tên Vương Lỗi và Đàm Xuyên đều bị trói chặt cứng hệt như nhau, chỉ khác nhau một điều là cái đầu trọc của Vương Lỗi bóng như tấm kính dưới ánh mặt trời. Cả hai tên này bị trói hai bên, cách trói giống hệt nhau, trông giống như hai con chó bị chọc tiết rồi trói lên! Giữa hai chiếc giá còn một cái để không, không cần nói cũng biết chắc đó là chiếc giá chuẩn bị trói tôi. Tôi biết, một khi đã bị trói như hai tên kia có nghĩa là tôi sẽ hết cơ hội. Lúc đó, từ phía bên ngoài vòng vây đang vây tròn quanh chúng tôi đi đến ba người mà tôi đã biết, đó là gã mặt đen, con gái hắn và vợ hắn. Cách ăn mặc của họ không giống với cách ăn mặc của dân trong làng, gã mặt đen mang chiếc tay nải màu đen, hai người còn lại để tóc xõa bù xù xuống chiếc áo choàng trắng, hai màu đen tóc áo trắng đối nhau chan chát. Gã mặt đen lại gần tôi, vợ hắn cũng theo sát sau chồng. “Rốt cục các người muốn làm gì chúng tôi đây?” Tôi gào to. Gã mặt đen nhìn tôi với vẻ tiếc nuối: “Tôi đã nói rồi, việc gì anh phải khổ sở theo chúng tôi?” Tôi định nói tiếp, gã mặt đen liền vẫy vẫy tay, lập tức có hai tên mang mặt nạ tiến đến, mang tôi trói lên chiếc giá nằm giữa. Lúc đó, tôi định thần bất động, tập trung hết sức lên hai cánh tay. Dân làng đang chuẩn bị trói tôi lên chiếc giá ở giữa, trước hết họ phải gỡ dây trói rồi mới buộc lên, tôi chờ đợi cơ hội này. Khi họ dang hai tay tôi ra, tôi đột ngột tung tay lên, đẩy hai tên mang mặt nạ đang khiêng tôi sang hai bên. Lúc đó, đám người vây xem nhốn nháo cả lên, mấy tên đeo mặt nạ khác đồng loạt nhảy vồ vào tôi, đột nhiên tôi hô to lên: “Khoan, hãy đợi đã”. Gã mặt đen không có biểu hiện gì, hắn vẫy vẫy tay, những người có mang mặt nạ cứ tiến lên vây tròn lấy tôi, không đánh nữa. “Các người đông như thế, thì tôi có cánh cũng khó mà bay được, vậy tại sao các người không cho tôi hoàn thành tâm nguyện cuối cùng?” Tôi nói với gã mặt đen. Gã mặt đen trầm ngâm một hồi, cuối cùng hắn cũng gật đầu đồng ý. “Mày muốn gì cứ nói đi”. “Tại sao chúng mày muốn trói bọn tao lên cái giá đó? Có phải bọn mày đang tiến hành nghi lễ gì đó không?” “Mày đã biết sao còn hỏi? Dân làng tao sống bằng nghề trồng trọt, đất đai cho chúng tao sự sống, che chở chúng tao, chúng tao sinh sống trên đất, nên cứ mỗi năm vào mùa hè tức là trước vụ thu hoạch mùa thu, người dân ở đây phải tiến hành nghi lễ tế thần như thế này đây”. “Hiện nay, rất nhiều vùng đất vẫn còn tập tục này, nhưng tại sao các người nhất định phải trói bọn ta lên giá đó mới được?” Hắn trầm ngâm hồi lâu rồi đáp: “Các người là vật hy sinh, là cúng phẩm của bọn ta cho thần nông”. Tôi đã đoán trước được điều này, nhưng nghe tên này khẳng định lại thế tôi vẫn thấy rùng mình, mất hết cả hy vọng. Hắn tiếp: “Các người đã nhìn thấy hình vẽ trên tảng đá đó, đó chính là vị thần nông mà chúng tôi tôn thờ. Người cũng như thần thánh, đều sống nhờ vào đất, nên vật hy sinh làm cống phẩm của chúng tôi sẽ phải là sự trở lại vào lòng đất mẹ của các ngươi”. Lúc này tôi mới biết hàm nghĩa của những hình vẽ đó, hóa ra ý nghĩa của nó muốn nói là sự hồi sinh từ lòng đất. “Ngày tế thần nông mỗi năm là ngày lễ quan trọng nhất, bọn tao tin chắc rằng khi nào lấy người sống làm vật phẩm tế lễ, dùng máu tươi của người sống để tưới lên mặt đất, lấy thi thể người làm phân bón thì khi đó mới bảo đảm cho vụ gặt hái thành công trong mùa thu”. Nghe hắn nói, tôi thấy quen quen, hình như tôi đã nghe câu chuyện tế lễ thần nông trong truyền thuyết. Nghe hắn nói, tôi thấy chẳng lạnh mà người cứ run. Tôi tưởng tượng khi máu tươi chúng tôi tưới đỏ lên ruộng, thi thể chúng tôi làm phân bón cho lúa, thi thể từ từ rữa nát dưới gốc mạ non, nông dân trong vùng sẽ bận rộn bên xác chết chúng tôi để khẩn cầu thần nông ban ân mưa thuận gió hòa mùa màng bội thu. Hóa ra đó là tất cả bí mật của ngôi làng này! “Mày đã hiểu rõ chưa hả?” Gã mặt đen hỏi “Tao còn muốn biết một điều nữa”. Tôi hít hơi thật sâu, trong giọng nói đã nghe thấy sự bi thương. “Cống phẩm làm vật hy sinh cho bọn ngươi dâng lên thần nông là bọn tao, nhưng bọn tao là người vùng khác đến, thế thì có ý nghĩa gì nữa đâu?” “Bọn tao không chủ ý tìm bất kỳ ai ra làm tế phẩm cả, cũng giống như các ngươi”. Gã mặt đen kia bảo: “Vì trong lòng các ngươi có tham niệm, cho nên bọn tao đã lợi dụng điểm này để dụ bọn mày đến đây”. “Vậy chiếc bình đựng hồn kia là mồi?” “Đúng vậy, khi mày mua nấm khô của tao, tao đã biết cái mà mày mua là cái bình Ngũ Liên này chứ không phải là nấm khô. Chiếc bình này nếu mang ra các thành phố lớn sẽ đổi được rất nhiều tiền, để chiếm được nó bọn mày mới tìm đến làng bọn tao, cuối cùng bọn mày phải trả cái giá này”. Hắn quay đầu lại chỉ hai tên Vương Lỗi và Đàm Xuyên bảo: “Hai tên kia cũng như mày, vì kiếm tiền, vì phát tài mà bất chấp tất cả”. Ánh mắt gã mặt đen hướng về phía chiếc bình, gã nói: “Thực ra, chiếc bình đựng hồn người này là pháp khí quan trọng nhất trong buổi tế lễ này, nó được dùng để đựng hồn người chết trong các buổi tế lễ thần nông, sao tao có thể dễ dàng bán cho chúng mày được?” Tôi thầm than trách, lòng tham là cội nguồn của mọi tội lỗi, nhưng đồng thời nó là khởi điểm của sự sống, không ngờ rằng, chiếc bình đựng hồn người là sự đeo đuổi và cũng là vật hấp dẫn đưa đường chỉ lối chúng tôi đến đây, nhưng cuối cùng chúng tôi lại phải chết vì cái bình đó, hơn nữa linh hồn chúng tôi sẽ bị nhốt trong cái bình kia, quả thực là một sự mỉa mai! Tôi liếc nhìn hai người nữ sau lưng gã mặt đen, lắc đầu nói: “Tối hôm qua mày nói với bọn tao, con gái mày chỉ biết nói chuyện với chiếc bình kia, vì nó tin chắc rằng, mẹ nó đang sống trong chiếc bình kia, hóa ra tất cả điều bọn mày nói đều là lừa dối, láo toét!” Gã mặt đen cũng nhìn theo ánh mắt tôi, nhìn theo hai mẹ con - vợ và con gái của mình, bỗng ánh mắt hắn hình như hiền dịu gần gũi hơn. “Tục lệ trong bộ lạc bọn tao quy định, vật hy sinh để tế lễ trong ngày giỗ hàng năm phải là người ngoài làng, mỗi nhà có nhiệm vụ đi tìm người để tế, cứ hết nhà này đến nhà khác luân phiên thay nhau tìm. Năm nay đến lượt nhà tao phải tìm cho ra vài người. Nhất định tao phải để cho vợ và con gái tao có việc mà làm nên tao đã bịa chuyện để lừa bọn mày. Nếu không vì việc đó làm sao mày bỏ trốn? Phải biết rằng, chúng tao không thèm để ý đến bọn ngoài làng như bọn mày, nhưng một lúc để tao ứng phó với cả ba người chúng mày quả là chuyện không dễ”. Gã mặt đen thở dài rồi nói: “Được rồi! Đã sắp đến giờ rồi, tao nghĩ mày đã hiểu rõ nguyên nhân, chắc chắn chết cũng không hối hận!” Hắn vẫy tay, hai gã đeo mặt nạ thủ thế lao đến. “Khoan đã, khoan đã!” Tôi lại la lớn lần nữa: “Tao có câu hỏi cuối cùng, bây giờ tao chưa muốn chết, cũng không muốn trở thành vật hy sinh cho chúng mày, nên bọn mày không thể trói tao được”. Gã mặt đen nhìn tôi với thái độ khó hiểu, hình như hắn không hiểu tại sao tôi lại nói thế, hắn cho rằng tôi là một người rất kỳ quái. “Chẳng lẽ mày nghĩ rằng mày còn có lựa chọn nào khác?” “Đương nhiên”. Tôi giương mắt lên cười như điên, bỗng nhiên trong tay tôi có thêm một khẩu súng. “Quả không sai chút nào, tao đã lừa bọn mày, tao không phải là người buôn đồ cổ, tao là cảnh sát. Mùa hè năm ngoái, tao nhận được điện của người bạn, chính người bạn gọi điện cho tao mới là người buôn đồ cổ, nó xây nhà được là vì nó đã mua được chiếc bát cổ khi vào ăn phở trong quán lá ở một huyện lỵ nhỏ rồi mua nốt chiếc bát cổ mà ông chủ quán đựng thức ăn cho hắn, ông chủ quán không ngờ chiếc bát mà hắn mua là cái bát cổ được làm từ thời Nguyên. Lần điện thoại đó, hắn gọi và bảo tao hắn đang ở trong thị trấn nhỏ của một huyện vùng Tây Nam Trung Quốc. Hắn bảo chiếc bát đó hắn gạ mua nhưng ông chủ nhất định không bán nên bạn tao mới đi theo hắn, vì người bạn đó của tao nghĩ rằng, nếu đến quê của người chủ chắc chắn sẽ có thu hoạch... Sau cuộc điện thoại đó, hắn bặt vô âm tín. Nếu người bạn kia của tao cũng là người bình thường thì tao việc gì phải lặn lội đường sá xa xôi để đến vùng hẻo lánh chết tiệt này làm gì. Tao với hắn không những là đồng nghiệp mà hắn còn giới thiệu em gái hắn cho tao nữa. Nghiêm túc mà nói, hắn còn là anh vợ của tao nữa. Bất luận là về cả công chuyện riêng tao cũng phải có nhiệm vụ đến đây. Đương nhiên trước khi đến đây tao đã chuẩn bị chu đáo cả rồi. Trước khi đến, tao còn tìm hiểu tập tục của người dân ở đây với một giáo sư dân tộc học đức cao vọng trọng, tao không quên hỏi những vấn đề có liên quan đến chiếc bình đựng hồn người Ngũ Liên kia cũng như ý nghĩa những hình vẽ trên đó. Người bạn mất tích của tao đó còn nói cho tao biết về hình dáng của chiếc bình Ngũ Liên và những gì có liên quan. Sau khi tra kỹ về ý nghĩa các hoa văn trang trí trên chiếc bình, ông giáo sư mới giảng giải cho tao, thực ra đó là tôtem của một nhóm người vùng xa vùng sâu, nó biểu thị ý nghĩa đất là cội nguồn của con người. Nhưng ngay vị giáo sư dân tộc học đó cũng không biết nghi thức tế lễ phải dùng người để tế sống quỷ thần. Thế là tao đến ngay ngôi làng chúng mày, nơi thằng bạn tao mất tích. Trong phiên chợ hôm nọ tao nghe mày có nói về chiếc bình đựng hồn người này... Tao cũng như bạn tao, cũng theo chúng mày về đến tận làng chúng mày. Nay chân tướng sự việc đã bại lộ, người bạn đồng nghiệp của tao đã làm vật hy sinh cúng quỷ thần cho bọn mày, máu tươi đã tưới đất này, xương thịt cũng làm phân cho đất này. Công việc mà tao phải làm bây giờ là phơi bày chân tướng của bí mật này.” Dân làng ở đây không phải là bọn man di độc địa, họ làm việc đó chẳng qua là do tập tục người xưa truyền lại mà thôi, hơn nữa, suốt cuộc đời họ sống trên mảnh đất này, nên tất cả những gì có liên quan đến vùng đất họ sống đều tin tưởng khắc cốt ghi tâm, không bao giờ hoài nghi những gì người xưa để lại. Chính vì thế mà khi tôi bắn phát súng lên trời cảnh cáo, những người dân làng đã sợ đến ngẩn người, đại đa số dân chúng trong làng đã quỳ xuống trong vô ý thức. Nhưng gã mặt đen và mấy tên mang mặt nạ vẫn vây lấy tôi. Trong tình hình đó, nếu tôi muốn vượt vòng vây mà không gây thương tổn cho người xung quanh là điều không thể, hơn nữa gã mặt đen là người tấn công đầu tiên vào tôi. Một tiếng súng nữa, gã mặt đen ôm ngực, lảo đảo bước lên trước mấy bước rồi gục xuống. Mấy tên đeo mặt nạ kinh hoảng, từng đứa một tản ra hai bên, tôi lợi dụng bọn chúng trong lúc giãn ra để hở một lối nhỏ, thế là lập tức như con sóc tôi nhảy chuồn vào ruộng lúa. Là cảnh sát, tôi không được phép để hai tên Vương Lỗi và Đàm Xuyên ở lại, nhưng tình hình khẩn cấp lúc đó, tôi không thể không làm vậy. Hơn nữa, tay chân bọn chúng đều đã bị trọng thương, không thể tự đi lại được, nếu đèo bòng thêm họ thì e tính mạng tôi cũng khó bảo đảm. Tôi đành phải để hai người bọn họ lại, một mình mình tháo chạy. Tôi vừa chạy đi, dân chúng liền đuổi theo, quả thực trong mơ tôi cũng không dám mơ thế. Trong lúc chạy tôi đã dẫm lên ruộng lúa đang chờ vụ bội thu nhờ đã cúng máu tươi... vì thế tôi có cảm giác như đang đi qua cánh đồng có màu máu tươi của người ta. May mắn, cuối cùng tôi đã thoát khỏi sự truy đuổi của dân làng, tìm vào một khu rừng rậm tạm trốn. Không được bao lâu, tôi phát hiện mình đang lâm vào một mối nguy hiểm khác - lạc đường trong rừng rậm. Tôi như con thú bị mù, cứ tháo chạy lung tung trong rừng rậm, rừng rậm quá, tôi không thể nào tìm được ra lối. Vô tình, tôi đang sống cuộc sống của người rừng, hàng ngày, ngoài việc kiếm thức ăn để sinh tồn, tôi còn phải cảnh giác những con thú của rừng núi. Tôi nghĩ, người ta sống trong các thành phố hiện đại khó có được sự thể nghiệm như tôi hiện nay. Tôi phải sống kiểu thời nguyên thủy, hàng ngày hái trái cây, bắt thú nhỏ ăn thịt sống uống máu tươi, đêm đêm lại tìm hốc cây an toàn mà ngủ. May mắn quá tôi đã tìm được ra cánh đồng lúa của dân làng này, tôi lặn lội dưới cánh đồng lúa, tìm đến những hình nộm, cởi bỏ áo mình ra, mặc chiếc áo của người nộm. Trong những hình nộm đó, bên trong đều lấy xương người thật làm giá chống. Không biết có phải là xương của hai gã buôn đồ cổ Vương Lỗi và Đàm Xuyên không nhưng tôi nghĩ bây giờ nhất định họ đã bị dân làng giết chết, máu của họ đã tưới lên ruộng này, thịt xương của họ đã rữa nát để làm phân bón cho ruộng này rồi. Sống cuộc sống như thế trong bao lâu tôi không hay biết nữa, chắc phải ra ngoài kia nơi chốn văn minh đô thị mới biết được. Một hôm, tôi leo lên đỉnh một ngọn núi, thấy có một dải dây như lụa rất dài bay theo gió, tôi lần theo thì tìm được đường cái, tôi mừng như thể người bị tù lâu ngày tự nhiên được thả khỏi lao ngục. Tôi chạy suốt cả quãng đường. Nửa tháng sau, đang trong mùa gặt vụ thu, tôi dẫn theo đội quân có trang bị vũ khí của quân đội đang đóng trong vùng lân cận đó, đến ngôi làng của những người dân lấy người sống cúng quỷ thần này. Nhưng chúng tôi đã lần mò suốt nửa tháng, thậm chí còn điều động trực thăng đi thám thính vẫn không thấy dấu vết của dân làng đó đâu cả, thế là có người nghi ngờ, họ cho rằng tôi đã báo cáo sai sự thật. Ngày 30 tháng 10, tôi và lính có trang bị vũ khí trèo lên một sườn núi, lúc đó, chúng tôi ngẩn hết người ra. Dưới chân núi là một cánh đồng lúa mênh mông, trĩu hạt làm oằn cả thân lúa. Điều làm chúng tôi vô cùng kinh ngạc đó là lúa ở đây đều có màu đỏ ối như màu máu tươi, cả một cánh đồng lúa chín màu đỏ rực... Dưới ánh trời chiều, cánh đồng mênh mông màu đỏ rực nhuộm thắm cả một góc trời. Các bản vẽ phác thảo cứ phất phới bay đầy đồng, cảnh tượng hùng vĩ trong tranh đã ghi lại tất cả quá trình quan hệ của Tần Ca và Tạ Phi. Đào Tử hiểu rằng, khi tất cả những bí mật đã được vạch trần, phơi bày ra, thì đối sách cuối cùng cũng phải bắt đầu. Nhìn thẳng vào mắt người đàn ông trước mặt, cô nói: “Trịnh Dung Tân đã chết, nếu tôi đoán không nhầm, thì tình hình của Trần Hoa bây giờ cũng không ra gì!” “Đấy là tội hắn làm hắn chịu, cũng đáng thôi!” Tạ Phi nói với giọng mãn nguyện. “Thế thì bạn đồng nghiệp của tôi và vợ cậu đâu?” Không thể giữ bình tĩnh được nữa, Đào Tử xông lên quát hỏi Tạ Phi: “Họ vô tội, cậu đã biết rõ là oán niệm trong “Bảy ngôi làng ma” rất mạnh, người bình thường sau khi vào đó, thì nguy hiểm nhiều hơn là an toàn, thế tại sao cậu còn để cho họ vào để phải liên lụy...?” Thân hình dong dỏng cao của Tạ Phi thụt lùi mấy bước, Tạ Phi bảo: “Đó là chuyện bất ngờ không may, trong khi tôi thí nghiệm giả hôn mê, họ bị người của Trần Hoa đưa vào trong hiện trường. Ai bảo bạn của cô xông vào làm gì?” “Khi bạn đồng nghiệp của tôi phát hiện anh không làm sao, anh liền lợi dụng tâm lý muốn đăng tin của cậu ấy, để cậu ấy thí nghiệm trò chơi “Bảy ngôi làng ma” đúng không?” Tạ Phi không nói lời nào vì cơ bản không biết phải nói gì. “Anh đã báo thù được cho anh trai anh rồi”. Ánh mắt Đào Tử sắc như lưỡi kiếm nhìn thẳng vào Tạ Phi, cô nói tiếp: “Nhưng cái chết của Trương Vy chính là cái giá phải trả của anh đấy”. Việc đã đến nước này, điều duy nhất mà Tạ Phi khó đối mặt đó là người vợ mới cưới của mình đang nằm trong phòng quan sát. Không muốn để cho bất kỳ ai nguyền rủa cô ấy, Tạ Phi toan nhào lên tóm lấy Đào Tử, nhưng vừa mới tiến lên một bước, anh ta đã bị té ngã bởi những đường dây truyền tải số liệu. Tạ Phi giẫy giụa theo bản năng, không ngờ đã làm một dãy giá máy sập xuống, những cỗ máy cứng nhắc đè lên hai chân anh ta khiến hai chân dập nát, máu xương lẫn lộn... Trong cơn tuyệt vọng, anh ta thấy Đào Tử đang ráng sức nhấc không đến nỗi vụng về. Tuy là thân gái, nhưng cô làm việc không hồ đồ, Tạ Phi không hiểu nên gượng lấy hơi hỏi: “Tại sao cô lại cứu tôi?” Lần này cô phóng viên trẻ tuổi này không đáp lời, cô vừa cẩn thận bê dần các cỗ máy ra, vừa nói: “Anh có biết các hacker thiên tài đã viết phần mềm vi rút, khiến cho vô số công ty phá sản, công nhân thất nghiệp, phải tự vẫn không? Và sau khi bị giam vào ngục, họ phải làm những gì không?” Thấy anh ta thất thần, Đào Tử nói: “Phải sám hối, cần phải viết lại phần mềm diệt vi rút, còn anh cũng thế, anh phải ra mà cứu vợ anh đi”. Cô vừa nói xong thì chiếc máy cuối cùng đè trên người Tạ Phi cũng được dỡ khỏi người anh ta. Lúc này Tạ Phi cảm thấy một sự khoan khoái chưa bao giờ có, chắc nó còn khoan khoái hơn khi ở trên thiên đàng, tất cả những hận thù, tất cả những đớn đau đều tan thành mây khói. Trước mắt anh ta, hình ảnh người vợ hiền thục, dịu dàng, kiều diễm hiện ra - Trương Vy. Anh ta nhất định phải cứu lấy vợ mình - Trương Vy. Khi niềm tin đã được xác định, Tạ Phi liền vùng vẫy ngồi dậy nói với Đào Tử: “Xin cô... xin cô... dẫn tôi ra khỏi nơi này”.
Bảy ngôi làng ma - Chương 7 NGÔI LÀNG THỨ SÁU: CUỐI ĐƯỜNG
Đối với trò chơi đáng sợ đó, trước nay Trương Vy vẫn không đồng ý với chồng. Những cảnh tượng hãi hùng, khủng bố đó, lại được chồng cô vẽ trong những bản phác thảo này. Cũng cùng nghề điện tử với chồng nhưng Trương Vy xưa nay không hề can thiệp đến công việc của chồng. Vì thế cô không hề biết đến, công việc viết phần mềm trò chơi này.
Lúc đó, một ý chí kiên cường chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí cô. Cô phải nhanh chóng tìm hiểu kỹ càng từng tí một công việc của chồng mình, hình như chỉ như thế cô mới có được toàn bộ con người anh. Với ý nghĩ đó, cô đã mở trò chơi mà không cần hỏi chồng có đồng ý không, tự mình mở chiếc máy tính xách tay chuyên dùng của chồng ra. Trong vô số hộp thoại, hơn một nửa là mã số lập trình. Lập trình là một công việc mang tính trí tuệ cực cao.
Tuy khô khan nhưng đối với người trong nghề lại rất cuốn hút, cần phải có chí và tính kiên nhẫn cao độ mới hoàn thành được công việc. Chỉ cần nhập sai một mã số thì toàn bộ công trình sẽ bị treo. Trước màn hình vi tính, Trương Vy đã đọc mấy chục bảng lập trình với ngôn ngữ C của chồng. Với ngôn ngữ C của máy tính, nếu không phải là người trong nghề nhìn sẽ như nhìn vào bức vách hoàn toàn không biết gì, nhưng vì đó là tâm huyết của chồng nên Vy quý nó như châu báu.
Cô truy tìm tới chân tơ kẽ tóc, chỉ cần tìm ra một manh mối nhỏ về nơi chồng cô thất lạc thì cô quyết không bỏ qua. Cứ thế, thời gian một buổi trưa trôi qua như chớp mắt. Vy đọc đến húp cả mí mắt vẫn không tìm được một chút tin tức nào có giá trị để cố tìm thấy chồng. Trong lúc buồn bã đóng máy, Vy đã vô tình phát hiện ra chiếc sim điện thoại ở nơi chỗ kín đáo này? Với tia hy vọng cuối cùng, Vy lắp chiếc thẻ nhớ kia vào điện thọai của mình.
Sau khi lắp xong, cô thấy trong thẻ có hai hộp thư, một hộp thư bình thường và một hộp kia là bảng lập trình trò chơi. Cô mở hộp thư bình thường ra trước, đó là một cuốn nhật ký rất dài. Thời gian cách đây mấy năm, có thể nói phần đầu của cuốn nhật ký là những dòng hồi ký.
Ngồi trên chiếc sô pha, cô ấn ngón tay vào nút mở bộ nhớ hộp thư ghi nhật ký. Cũng kể từ giây phút đó, cô ý thức sâu sắc rằng, từ đây không bao giờ còn tìm lại được tình cảm của những tháng ngày vợ chồng bên nhau như trước kia nữa.
Cuối cùng Vy cũng đã đọc hết toàn bộ cuốn nhật ký, chiếc di động dùng nhiều quá, mới sạc pin hồi sáng mà đã hết, máy tự động tắt. Giống như cục thịt biết đi, hai mắt Vy cô thần, cô hết đứng lại ngồi , rồi thay pin điện thoại như một thói quen. Vừa thay pin xong liền có ngay một cuộc điện thoại gọi đến, nhìn lại tên người gọi thì cô thấy đó là một nhà báo tên là Hồ Tử. Cũng theo quán tính cứ ấn nút “chấp nhận” thì vô tình lại nghe giọng nữ của một đầu dây khác gọi.
“A lô, xin hỏi cô có phải là Trương Vy không ạ, tôi là phóng viên tòa báo “Thân”, tên Đào Tử, tôi có số của cô trong máy của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi có một số chuyện quan trọng cần phải nói trực tiếp với cô”.
Ánh mắt đờ đẫn, Trương Vy không còn động não được nữa, cô nói nhỏ:” Xin lỗi, cô Đào, tôi quả thực không còn tâm trí nào để trả lời phỏng vấn của cô nữa”.
“ Cô nhầm rồi”. - Đào Tử vội vàng giải thích: “Tôi muốn gặp cô chủ yếu là để bàn với cô về chuyện mất tích của chồng cô - Tạ Phi. Với tư liệu có được trong tay, thì ở trường đại học ở Tĩnh Ma không có hồ sơ nào chứng minh anh ấy đã học chính quy ở trường đó cả. Tôi lại cứ nghĩ, anh ấy tốt nghiệp đại học trong nước rồi mới sang Mỹ học thạc sĩ.”
Lắng nghe Đào Tử phân tích, Trương Vy không nhịn được, ngắt lời: “Xin lỗi, nếu cô tìm tôi với mục đích này thì tôi nghĩ rằng tôi đã hiểu rõ.”
Bỗng cô không thể chịu được, người cứ run lên cầm cập, không nói được lời nào nữa. Cánh tay cầm điện thoại như đóng băng, cứng đơ ở tư thế đặt điện thoại bên tai, bên kia cô Đào nói:
“Cô Vy ạ, chúng tôi gọi điện cho cô không phải muốn li gián cô với Tạ Phi đâu. Nhưng người bạn đồng nghiệp của tôi là Hồ Tử - người đã từng phỏng vấn cô, vì chơi trò chơi do chồng cô viết mà đi viện rồi đấy, cậu ấy nằm trong viện không nói, không ăn, không còn tri giác gì cả, giống như người đã chết”.
Nhịp tim của Vy bỗng đập nhanh hơn. Qua điện thoại, Vy cũng nghe thấy sự căng thẳng của Đào, trong giọng nói của Đào còn có vẻ tự trách.
Tìm hiểu lý lịch học hành của Tạ Phi rồi, Đào cảm thấy khiếp. Vốn cứ ngỡ rằng Tạ Phi có bằng thạc sĩ chính quy, hơn nữa là bằng chính quy của Mỹ, nhưng kết quả lại cho thấy ngay cả danh sách tại khoa tin học ở Tĩnh Ma cũng không có tên Tạ Phi.
Phản ứng nhạy bén - đức tính thiên bẩm của một phóng viên, khiến Đào Tử đã chủ động điều tra tư liệu có liên quan đến Tạ Phi cả từ mấy năm về trước, cô tìm đến Tĩnh Ma tra danh sách các thạc sĩ của khoa tin học. Trong vô số hồ sơ, chỉ có tên của một sinh viên họ Tần khiến cô lưu ý.
Thời gian người đó nhập học cách đây đã hơn chín năm, tức là một năm sau khi Tần Ca, một lập trình viên của tập đoàn phần mềm trò chơi điện tử họ Trần mất tích! Tần Ca mất tích với một người họ Tần du học ở Mỹ nhưng bị công ty này giam cầm… và Tạ Phi… rốt cục ba người đó có quan hệ gì với nhau?
Trong lòng đã nghi ngờ nhưng Đào Tử không dám quả quyết, với giả thuyết đó, Đào Tử đã thấy run sợ.
Hồi lâu sau, Trương Vy rốt cục cũng đã lên tiếng: “Tôi không hiểu ý của cô, nếu vẫn là chuyện này thì tôi xin ngắt máy không nghe nữa!”
“Đợi đã cô Vy”, Đào Tử vội nói lớn: “Bất luận trong lòng cô giờ đang nghĩ gì, cô cũng phải nghe theo tôi, nhất định không được vào trò chơi này - “Bảy ngôi làng ma”.
Cũng may là cô Vy chưa tắt điện thoại. Đào Tử vội nói tiếp: “Trò chơi đó quá nguy hiểm, nếu người không có ý trí thì sau khi kết thúc trò chơi sẽ bị trò chơi ấy thôi miên, dẫn đến tinh thần điên loạn bất an, có thể dẫn tới cái chết”.
“Bảy ngôi làng ma” - một trò chơi quỷ ám! Ngoài việc bố trí cảnh nền kinh hãi và các tình tiết ghê rợn ra, thì trò chơi này còn sử dụng biện pháp ám thị tâm lý mà thế giới đã có văn bản ngăn cấm, vì thế khi tham gia trò chơi, người chơi sẽ bị khủng hoảng tinh thần do sợ đến cực điểm. Trò chơi này, chỉ dùng trong các cơ quan đặc công để kiểm nghiệm tâm lý của các đặc công thôi. Người bình thường không thể chế ngự sự khủng khiếp trong đó được.
Trương Vy nắm chặt chiếc điện thoại trong tay, hình như cô có một quyết định gì quan trọng. Cuối cùng cô nói: “Cô Đào Tử, cảm ơn sự quan tâm của cô đối với tôi, nhưng tôi vẫn có lý do không thể không xem”. Nói xong cô ta ngắt điện thoại, rồi khóa ngay số của Hồ Tử không nghe nữa.
Sau đó Vy mở tiếp hộp tư liệu còn lại trong thẻ nhớ. Quả thực không sai chút nào, đó là phần mềm cài trong điện thoại của seri trò chơi này “Bảy ngôi làng ma”. Sau khi đăng nhập xong các thủ tục cần thiết, Trương Vy đối diện với bảy sự lựa chọn do trò chơi nêu ra.
Cô là nhà thám hiểm, trước mặt là phúc hay họa, cô hoàn toàn chưa biết. Ánh sáng trước mặt bỗng tắt ngóm, không còn nghe thấy âm thanh động tĩnh nào nữa, không khí xung quanh chỉ có chữ để hình dung.
“Sự im lặng của cái chết”.
Tối đen và ngột ngạt - sự tối tăm cô quạnh của cái chết.
Một mình tôi đứng trước màn tối dày đặc đó, nghe thấy tiếng đập của tim rõ và nhanh.
Đây là đâu, tôi không thấy gì cả.
Tôi chỉ thấy ngay cả không khí ở đây cũng đông lại, thời gian cũng như đang dừng lại trong khoảnh khắc tột cùng của sự sợ sệt.
Một sức mạnh không biết từ đâu bỗng nhiên xuất hiện sau lưng tôi, thúc giục tôi đi về phía đen tối vô bờ bến kia. Không có ánh sáng, không hy vọng, một màn tối không bờ không bến! Có một cái gì đó đang lấp chẹn tim tôi, áp chế hơi thở và tư duy của tôi. Nỗi sợ hãi mênh mông cứ lớn dần trong tâm trí, nó nhấn chìm tôi.
Lúc đó, một ý chí kiên cường chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí cô. Cô phải nhanh chóng tìm hiểu kỹ càng từng tí một công việc của chồng mình, hình như chỉ như thế cô mới có được toàn bộ con người anh. Với ý nghĩ đó, cô đã mở trò chơi mà không cần hỏi chồng có đồng ý không, tự mình mở chiếc máy tính xách tay chuyên dùng của chồng ra. Trong vô số hộp thoại, hơn một nửa là mã số lập trình. Lập trình là một công việc mang tính trí tuệ cực cao.
Tuy khô khan nhưng đối với người trong nghề lại rất cuốn hút, cần phải có chí và tính kiên nhẫn cao độ mới hoàn thành được công việc. Chỉ cần nhập sai một mã số thì toàn bộ công trình sẽ bị treo. Trước màn hình vi tính, Trương Vy đã đọc mấy chục bảng lập trình với ngôn ngữ C của chồng. Với ngôn ngữ C của máy tính, nếu không phải là người trong nghề nhìn sẽ như nhìn vào bức vách hoàn toàn không biết gì, nhưng vì đó là tâm huyết của chồng nên Vy quý nó như châu báu.
Cô truy tìm tới chân tơ kẽ tóc, chỉ cần tìm ra một manh mối nhỏ về nơi chồng cô thất lạc thì cô quyết không bỏ qua. Cứ thế, thời gian một buổi trưa trôi qua như chớp mắt. Vy đọc đến húp cả mí mắt vẫn không tìm được một chút tin tức nào có giá trị để cố tìm thấy chồng. Trong lúc buồn bã đóng máy, Vy đã vô tình phát hiện ra chiếc sim điện thoại ở nơi chỗ kín đáo này? Với tia hy vọng cuối cùng, Vy lắp chiếc thẻ nhớ kia vào điện thọai của mình.
Sau khi lắp xong, cô thấy trong thẻ có hai hộp thư, một hộp thư bình thường và một hộp kia là bảng lập trình trò chơi. Cô mở hộp thư bình thường ra trước, đó là một cuốn nhật ký rất dài. Thời gian cách đây mấy năm, có thể nói phần đầu của cuốn nhật ký là những dòng hồi ký.
Ngồi trên chiếc sô pha, cô ấn ngón tay vào nút mở bộ nhớ hộp thư ghi nhật ký. Cũng kể từ giây phút đó, cô ý thức sâu sắc rằng, từ đây không bao giờ còn tìm lại được tình cảm của những tháng ngày vợ chồng bên nhau như trước kia nữa.
Cuối cùng Vy cũng đã đọc hết toàn bộ cuốn nhật ký, chiếc di động dùng nhiều quá, mới sạc pin hồi sáng mà đã hết, máy tự động tắt. Giống như cục thịt biết đi, hai mắt Vy cô thần, cô hết đứng lại ngồi , rồi thay pin điện thoại như một thói quen. Vừa thay pin xong liền có ngay một cuộc điện thoại gọi đến, nhìn lại tên người gọi thì cô thấy đó là một nhà báo tên là Hồ Tử. Cũng theo quán tính cứ ấn nút “chấp nhận” thì vô tình lại nghe giọng nữ của một đầu dây khác gọi.
“A lô, xin hỏi cô có phải là Trương Vy không ạ, tôi là phóng viên tòa báo “Thân”, tên Đào Tử, tôi có số của cô trong máy của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi có một số chuyện quan trọng cần phải nói trực tiếp với cô”.
Ánh mắt đờ đẫn, Trương Vy không còn động não được nữa, cô nói nhỏ:” Xin lỗi, cô Đào, tôi quả thực không còn tâm trí nào để trả lời phỏng vấn của cô nữa”.
“ Cô nhầm rồi”. - Đào Tử vội vàng giải thích: “Tôi muốn gặp cô chủ yếu là để bàn với cô về chuyện mất tích của chồng cô - Tạ Phi. Với tư liệu có được trong tay, thì ở trường đại học ở Tĩnh Ma không có hồ sơ nào chứng minh anh ấy đã học chính quy ở trường đó cả. Tôi lại cứ nghĩ, anh ấy tốt nghiệp đại học trong nước rồi mới sang Mỹ học thạc sĩ.”
Lắng nghe Đào Tử phân tích, Trương Vy không nhịn được, ngắt lời: “Xin lỗi, nếu cô tìm tôi với mục đích này thì tôi nghĩ rằng tôi đã hiểu rõ.”
Bỗng cô không thể chịu được, người cứ run lên cầm cập, không nói được lời nào nữa. Cánh tay cầm điện thoại như đóng băng, cứng đơ ở tư thế đặt điện thoại bên tai, bên kia cô Đào nói:
“Cô Vy ạ, chúng tôi gọi điện cho cô không phải muốn li gián cô với Tạ Phi đâu. Nhưng người bạn đồng nghiệp của tôi là Hồ Tử - người đã từng phỏng vấn cô, vì chơi trò chơi do chồng cô viết mà đi viện rồi đấy, cậu ấy nằm trong viện không nói, không ăn, không còn tri giác gì cả, giống như người đã chết”.
Nhịp tim của Vy bỗng đập nhanh hơn. Qua điện thoại, Vy cũng nghe thấy sự căng thẳng của Đào, trong giọng nói của Đào còn có vẻ tự trách.
Tìm hiểu lý lịch học hành của Tạ Phi rồi, Đào cảm thấy khiếp. Vốn cứ ngỡ rằng Tạ Phi có bằng thạc sĩ chính quy, hơn nữa là bằng chính quy của Mỹ, nhưng kết quả lại cho thấy ngay cả danh sách tại khoa tin học ở Tĩnh Ma cũng không có tên Tạ Phi.
Phản ứng nhạy bén - đức tính thiên bẩm của một phóng viên, khiến Đào Tử đã chủ động điều tra tư liệu có liên quan đến Tạ Phi cả từ mấy năm về trước, cô tìm đến Tĩnh Ma tra danh sách các thạc sĩ của khoa tin học. Trong vô số hồ sơ, chỉ có tên của một sinh viên họ Tần khiến cô lưu ý.
Thời gian người đó nhập học cách đây đã hơn chín năm, tức là một năm sau khi Tần Ca, một lập trình viên của tập đoàn phần mềm trò chơi điện tử họ Trần mất tích! Tần Ca mất tích với một người họ Tần du học ở Mỹ nhưng bị công ty này giam cầm… và Tạ Phi… rốt cục ba người đó có quan hệ gì với nhau?
Trong lòng đã nghi ngờ nhưng Đào Tử không dám quả quyết, với giả thuyết đó, Đào Tử đã thấy run sợ.
Hồi lâu sau, Trương Vy rốt cục cũng đã lên tiếng: “Tôi không hiểu ý của cô, nếu vẫn là chuyện này thì tôi xin ngắt máy không nghe nữa!”
“Đợi đã cô Vy”, Đào Tử vội nói lớn: “Bất luận trong lòng cô giờ đang nghĩ gì, cô cũng phải nghe theo tôi, nhất định không được vào trò chơi này - “Bảy ngôi làng ma”.
Cũng may là cô Vy chưa tắt điện thoại. Đào Tử vội nói tiếp: “Trò chơi đó quá nguy hiểm, nếu người không có ý trí thì sau khi kết thúc trò chơi sẽ bị trò chơi ấy thôi miên, dẫn đến tinh thần điên loạn bất an, có thể dẫn tới cái chết”.
“Bảy ngôi làng ma” - một trò chơi quỷ ám! Ngoài việc bố trí cảnh nền kinh hãi và các tình tiết ghê rợn ra, thì trò chơi này còn sử dụng biện pháp ám thị tâm lý mà thế giới đã có văn bản ngăn cấm, vì thế khi tham gia trò chơi, người chơi sẽ bị khủng hoảng tinh thần do sợ đến cực điểm. Trò chơi này, chỉ dùng trong các cơ quan đặc công để kiểm nghiệm tâm lý của các đặc công thôi. Người bình thường không thể chế ngự sự khủng khiếp trong đó được.
Trương Vy nắm chặt chiếc điện thoại trong tay, hình như cô có một quyết định gì quan trọng. Cuối cùng cô nói: “Cô Đào Tử, cảm ơn sự quan tâm của cô đối với tôi, nhưng tôi vẫn có lý do không thể không xem”. Nói xong cô ta ngắt điện thoại, rồi khóa ngay số của Hồ Tử không nghe nữa.
Sau đó Vy mở tiếp hộp tư liệu còn lại trong thẻ nhớ. Quả thực không sai chút nào, đó là phần mềm cài trong điện thoại của seri trò chơi này “Bảy ngôi làng ma”. Sau khi đăng nhập xong các thủ tục cần thiết, Trương Vy đối diện với bảy sự lựa chọn do trò chơi nêu ra.
Cô là nhà thám hiểm, trước mặt là phúc hay họa, cô hoàn toàn chưa biết. Ánh sáng trước mặt bỗng tắt ngóm, không còn nghe thấy âm thanh động tĩnh nào nữa, không khí xung quanh chỉ có chữ để hình dung.
“Sự im lặng của cái chết”.
Tối đen và ngột ngạt - sự tối tăm cô quạnh của cái chết.
Một mình tôi đứng trước màn tối dày đặc đó, nghe thấy tiếng đập của tim rõ và nhanh.
Đây là đâu, tôi không thấy gì cả.
Tôi chỉ thấy ngay cả không khí ở đây cũng đông lại, thời gian cũng như đang dừng lại trong khoảnh khắc tột cùng của sự sợ sệt.
Một sức mạnh không biết từ đâu bỗng nhiên xuất hiện sau lưng tôi, thúc giục tôi đi về phía đen tối vô bờ bến kia. Không có ánh sáng, không hy vọng, một màn tối không bờ không bến! Có một cái gì đó đang lấp chẹn tim tôi, áp chế hơi thở và tư duy của tôi. Nỗi sợ hãi mênh mông cứ lớn dần trong tâm trí, nó nhấn chìm tôi.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)